STT
|
NỘI DUNG BẢN ÁN
|
TRANG
|
1
|
Bản án số: 338/2021/DS-PT ngày: 26 - 10 – 2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành Phố Hồ Chí Minh
V/v: “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất”
Nội dung:
Bà Nguyễn Thị V và ông Nguyễn Văn Y chung sống có 13 con chung. Khi còn sống ông Y, bà V sống tại căn nhà trên cùng với các con là bà Nguyễn Thị Mỹ NLQ4, bà Nguyễn Thị Mỹ NLQ5, bà Nguyễn Thị Mỹ NLQ8 và vợ chồng ông Nguyễn Hoàng BĐ. Sau khi ông Y, bà V qua đời thì toàn bộ giấy tờ nhà do ông Nguyễn Hoàng BĐ giữ. Sau này tìm hiểu thì ông NĐ mới biết là trong lúc cha mẹ ông bệnh nặng, nằm liệt một chỗ suốt mấy năm trời, tinh thần không tỉnh táo thì ông Nguyễn Hoàng BĐ đã yêu cầu Công chứng viên đến nhà để thực hiện thủ tục tặng cho nhà đất số 176 đường X5, phường X6, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh từ ông Y, bà V sang tên cho ông BĐ. Nguyên đơn cho rằng việc công chứng hợp đồng tặng cho nhà đất nêu trên là không đúng ý chí của ông Y, bà V do tại thời điểm ký công chứng ông Y, bà V bị bệnh tai biến mạch máu não, đái tháo đường, tăng huyết áp, suy giảm trí nhớ, liệt nửa người mất ý thức gần 3 năm trước thời điểm tặng cho nhà đất trên cho ông BĐ. Tại bản trình bày ý kiến về yêu cầu của người khởi kiện lập ngày 02/11/2018, ông BĐ cũng đã thừa nhận “cha mẹ tôi có bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người và suy giảm trí nhớ” nên tại thời điểm lập hợp đồng tặng cho ông Y, bà V không có đầy đủ năng lực hành vi để ký hợp đồng tặng cho nhà đất với ông BĐ.
Hợp đồng công chứng tặng cho nhà đất nêu trên được lập tại Văn phòng công chứng S. Tuy nhiên, thực tế ông Y, bà V bị nằm liệt một chỗ không thể đến Văn phòng công chứng để ký hợp đồng tặng cho được. Do đó, ông NĐ khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất Số 00009601, quyển Số 91/TP/CC- SCC/HĐGD lập ngày 01/11/2014 tại Văn phòng Công chứng S giữa ông Nguyễn Văn Y, bà Nguyễn Thị V và ông Nguyễn Hoàng BĐ vô hiệu, đồng thời yêu cầu hủy cập nhật biến động do Phòng đăng ký đất đai - chi nhánh Quận 2 thực hiện sang tên cho ông BĐ trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở số Hồ sơ gốc 754/2002 do Ủy ban nhân dân Quận 2 cấp ngày 23/8/2002), thay đổi biến động sang tên ông BĐ ngày 03/12/2014.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:
1. Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tuyên bố Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 00009601, quyển Số 91/TP/CC-SCC/HĐGD lập ngày 01/11/2014 giữa ông Nguyễn Văn Y, bà Nguyễn Thị V và ông Nguyễn Hoàng BĐ vô hiệu.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc hủy cập
nhật biến động thay đổi sang tên ông Nguyễn Hoàng BĐ ngày 03/12/2014 trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở số Hồ sơ gốc 754/2002 do Ủy ban nhân dân Quận 2 cấp ngày 23/8/2002.
3. Hủy Quyết định Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 189/2019/QĐ-BPKCTT ngày 03/6/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và Quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm Số 183/2019/QĐ-BPBĐ của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Nguyễn Hoàng NĐ được quyền liên hệ Ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế Việt Nam (VIB) để nhận lại số tiền 300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng).
Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:
Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Hoàng NĐ, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 140/2021/DS-ST ngày 25 tháng 01 năm 2021 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 141/2021/QĐ-SCBSBA ngày 29 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
|
1-16
|
2
|
Bản án số: 120/2019/DS – PT ngày: 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre
V/v: “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và đòi lại tài sản”
Nội dung:
Vào năm 1994, bà Phạm Thị L được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất 1760 có diện tích 300 m2, thửa 1761 có diện tích 1770 m2, thửa 762 có diện tích 2200m2 cùng thuộc tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre, tổng diện tích là 4270m2, (nay thuộc thửa mới là thửa 123 và thửa 32 tờ bản đồ số 38). Phần đất này có nguồn gốc do ông bà để lại và một phần mua thêm diện tích cụ thể như thế nào thì bà L không nhớ rõ. Bà H là con gái út của bà L và cùng sinh sống với bà từ nhỏ. Vào ngày 12/01/2012, bà H cùng chồng là ông X có chở bà đến Ủy ban nhân dân xã T nói là để lăn tay làm sổ hộ nghèo nhưng không hiểu tại sao bà H lại có hợp đồng tặng cho với nội dung bà L cho bà H toàn bộ phần đất bà đang đứng tên. Do bà đã lớn tuổi nên toàn bộ huê lợi giao bà H thu hoạch, do bà H không đưa tiền cấp dưỡng cho bà L hai mẹ con cãi nhau nên bà L bỏ về nhà người em gái ở Ba Tri sống, bà L bán đất nhưng không bán được do bà H đã đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Từ đó đến nay bà L không khiếu nại về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà H mà bà chỉ khởi kiện ra Tòa án yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đã ký vào ngày 12/01/2012 với bà H và yêu cầu bà H trả lại cho bà L giá trị của hai thửa đất số 123, 132 theo giá Hội đồng định giá đã định là 250.101.000 đồng, đối với tài sản và cây trồng trên đất bà L không tranh chấp, bà L đồng ý giao cho bà H tiếp tục quản lý sử dụng. Trong vụ án này bà L không có ý kiến gì về thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà H và cũng không có yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà H. Bà L đồng ý sử dụng kết quả đo đạc vào ngày 17/9/2015 và kết quả định giá vào ngày 22/3/2016 để giải quyết vụ án vì hiện tại hiện trạng sử dụng và tài sản trên đất không có thay đổi gì. Bà L và đại diện theo ủy quyền của bà L không yêu cầu giám định chữ ký của bà L trong hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đã ký vào ngày 12/02/2012 với bà H.
Tòa án cấp sơ thẩm
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị L về việc yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được ký kết ngày 12/01/2018 giữa bên tặng cho bà Phạm Thị L với bên được tặng cho bà Phạm Thị Hồng H đối với phần đất thuộc các thửa 123, 132 cùng tờ bản đồ số 38 tọa lạc tại xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre và yêu cầu bà Phạm Thị Hồng H trả lại giá trị thửa đất số 123 và thửa 132 với số tiền 250.101.000đ (Hai trăm năm mươi nghìn một trăm lẻ một đồng).
2. Chi phí tố tụng: Chi phí đo đạc là 2.751.200 đồng, chi phí định giá là 600.000 đồng, chi phí trích sao hồ sơ quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 123.000 đồng, tổng cộng chi phí thu thập chứng cứ là 3.419.200 đồng. Trong đó bà H đã nộp và tự nguyện chịu là 55.000 đồng, còn lại 3.419.200 đồng bà L phải chịu và đã nộp đủ.
Tòa án cấp phúc thẩm tuyên
Chấp nhận một phần yêu cầu bà Phạm Thị L về việc yêu cầu hủy hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất được ký kết ngày 12/01/2018 giữa bên tặng cho bà Phạm Thị L với bên được tặng cho bà Phạm Thị Hồng H đối với phần đất thuộc các thửa 123, 132 cùng tờ bản đồ số 38 tọa lạc tại xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre. Buộc bà Phạm Thị Hồng H trả lại ½ giá trị thửa đất số 123 và thửa 132 cho bà Phạm Thị L tính thành tiền là 125.050.500 đồng (Một trăm hai mươi lăm triệu không trăm năm mươi ngàn năm trăm đồng). Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, khi có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án nếu người phải thi hành án chưa thi hành xong số tiền phải thi hành thì phải chịu thêm phần lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án
xong.
Chi phí tố tụng: Chi phí đo đạc là 2.751.200 đồng, chi phí định giá là
600.000 đồng, chi phí trích sao hồ sơ quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 123.000 đồng, tổng cộng chi phí thu thập chứng cứ là 3.419.200 đồng. Trong đó bà H đã nộp và tự nguyện chịu là 55.000 đồng, còn lại 3.419.200 đồng bà L, bà H mỗi người chịu ½ bà L đã nộp xong bà H có nghĩa vụ trả cho bà L 1.709.600 đồng (Một triệu bảy trăm lẻ chín ngàn sáu trăm đồng).
|
17-25
|
3
|
Bản án số: 162/2023/DS-PT ngày: 30 - 5 – 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau
V/v: “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất”
Nội dung:
Ngày 27/10/2020 Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên T2 (viết tắt là Công ty T2) nộp đơn khởi kiện ông Phạm Văn L2, bà Nguyễn Thị L3 yêu cầu ông Phạm Văn L2 và bà Nguyễn Thị L3 trả số tiền nợ mua thức ăn nuôi tôm. Ngày 20/5/2021, Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của Công ty T2, buộc ông L2 và bà L3 trả số tiền nợ là 7.076.300.000 đồng theo bản án số 137/2021/DS-ST ngày 20/5/2021. Ngày 16/7/2021, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau ra quyết định số 1196/QĐ-CCTHADS ngày 16/7/2021 thi hành bản án trên theo yêu cầu của nguyên đơn, tuy nhiên qua xác minh điều kiện thi hành án đã xác định ông L2 và bà L3 có phần đất thuộc thửa số 155, 367 tờ bản đồ số 10, tổng diện tích 40.318,2 m2tọa lạc tại ấp Đ, xã P, huyện P, tỉnh
Cà Mau đã tặng cho con là Phạm Chí T theo hợp đồng tặng cho Quyền sử dụng đất chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã P ngày 11/3/2021, ngoài phần đất trên, bị đơn không còn phần đất và tài sản nào khác để thi hành án. Xét thấy, ông L2, bà L3 thực hiện giao dịch tặng cho Q sử dụng đất cho con là Phạm Chí T trong thời gian Tòa án đang giải quyết việc tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản với nguyên đơn và Tòa án
đã xét xử buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền 7.076.300.000 đồng là nhằm mục đích tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn. Do đó, nguyên đơn yêu cầu tuyên bố giao dịch hợp đồng tặng cho Quyền sử dụng đất giữa ông Phạm Văn L2, bà Nguyễn Thị L3 với anh Phạm Chí T được Ủy ban nhân dân xã P chứng thực ngày 11/3/2021 vô hiệu do giả tạo.
Tòa án cấp sở thẩm tuyên:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên T2. Tuyên bố Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị L3, ông Phạm Văn L2 và anh Phạm Chí T xác lập ngày 11 tháng 3 năm 2021 vô hiệu. Ông Phạm Văn L2 có quyền đăng ký lại quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:
Không chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Văn L2 và bà Nguyễn Thị L3. Giữ y Bản án sơ thẩm số 197/2022/DSST ngày 08 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
|
26-32
|
4
|
Bản án số: 247/2021/DS-PT ngày: 24 - 12 -2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre
V/v: “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất”
Nội dung:
Trước đây, Bà Đống Thị T có canh tác, quản lý, sử dụng các phần đất
thuộc thửa 128 tờ bản đồ số 3, diện tích 1230m2; thửa 113, diện tích 2997,9m2; thửa 132, diện tích 112,8m2; thửa 112, diện tích 469,4m2, cùng tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre. Nguồn gốc phần đất này là của cha mẹ để lại cho bà T và ông Đ nhưng ông Đ để cho bà T kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu vào năm 1990. Bà T sử dụng đất đến ngày 31/3/2015 thì lập di chúc cho ông Đ các thửa 113, 132, 11.2, 128 nêu trên. Di chúc được công chứng tại Văn phòng công chứng số 1 tỉnh Bến Tre.
Đến ngày 29 tháng 12 năm 2015, bà T và ông Đ thấy Ông Đống Minh Đ1 (cháu con người em trai thứ 5) nợ nần, không còn tài sản nên mới kêu về ở chung và cho ông Đ1 khoảng 2000m2 đất tại thửa 128, tờ bản đồ số 3, diện tích 1230m2 và thửa 112, tờ bản đồ số 11, diện tích 469,4m2 với điều kiện ông Đ1 phải nuôi bà T đến cuối đời. Lúc ra làm thủ tục tại xã thì thửa đất 128 đang tranh chấp với ông Nguyễn Văn T2 nên bà T kêu ông Đ1 đóng án phí làm thủ tục, nhưng ông Đ1 không làm. Do đó, bà T kêu ông Đ làm thủ tục khởi kiện để đòi lại phần đất đó, nếu đòi lại được thì cho ông Đ như tờ di chúc, chỉ cho ông Đ1 phần đất mộ thuộc thửa 112. Tuy nhiên, không biết bằng cách nào ông Đ1 đã làm thủ tục để bà T ký chuyển toàn bộ phần đất thửa 113, 132, 112 cho ông Đ1. Bà T xác định bà không có ý định chuyển cho ông Đ1 các thửa 113 và 132, phần đất này bà T để di chúc lại cho ông Đ. Đến năm 2018, ông Đ1 nói với người khác là các phần đất này đã chuyển nhượng cho ông Đ1 hết rồi nên bà T mới nhờ ông Đ tìm hiểu. Đến năm 2020, bà T phát hiện ra chính xác các thửa đất này đã sang tên qua ông Đ1 và ông Đ1 đã sang tên qua ông Mân nên bà buồn và qua nhà Ông Đống Văn Đ ở. Vì vậy, bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/12/2015 giữa Bà Đống Thị T và Ông Đống Minh Đ1, hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 29/7/2019 giữa Ông Đống Minh Đ1 và Ông Đống Minh M đối với các thửa đất 112, 113, 132, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre, yêu cầu ông Đ1 và ông M phải trả lại nhà, đất cho bà T. Người đại diện theo ủy quyền của bà T xác định thì bà T không có lăn tay trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/12/2015.
Tuy nhiên, sau đó bà T thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/12/2015 giữa Bà Đống Thị T và Ông Đống Minh Đ1, hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 29/7/2019 giữa Ông Đống Minh Đ1 và Ông Đống Minh M đối với các thửa đất 113, 132, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre, buộc ông Đ1 và ông M trả lại các thửa đất 113, 132, rút yêu cầu khởi kiện đối với thửa đất 112, bà T đồng ý cho ông Đ1 thửa 112.
Tòa án sơ thẩm tuyên:
1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Bà Đống Thị T đối với Ông Đống Minh Đ1, Ông Đống Minh M về việc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất 07/12/2015 và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 29/7/2019 đối với thửa 112, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp C, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre do Ông Đống Minh M đứng tên trên giấy chúng nhận quyền sử dụng đất (có họa đồ kèm theo).
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Bà Đống Thị T đối với Ông Đống Minh Đ1, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Đống Thị T đối với Ông Đống Minh M.
- Giữ nguyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
07/12/2015 giữa Bà Đống Thị T với Ông Đống Minh Đ1 và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 29/7/2019 giữa Ông Đống Minh Đ1 với Ông Đống Minh M đối với thửa 113, 132, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp C, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre
- Buộc Ông Đống Minh Đ1 phải hoàn trả lại cho Bà Đống Thị T 1/3 giá trị quyền sử dụng đất thửa 113, 132, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp C, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre với số tiền là 438.920.000 đồng và 1/3 giá trị nhà, cây trồng của bà T là 43.697.000 đồng, tổng cộng là 482.617.000 đồng.
- Ông Đống Minh M được toàn quyền sử dụng đối với thửa 113, tờ bản đồ số 11, diện tích 2954,lm2 tọa lạc tại ấp C, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre
Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:
1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Bà Đống Thị T đối với Ông Đống Minh Đ1, Ông Đống Minh M về việc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất 07/12/2015 và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 29/7/2019 đối với thửa 112, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp C, xã P, huyện 45C, tỉnh Bến Tre do Ông Đống Minh M đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (có họa đồ kèm theo).
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Đống Thị T đối với Ông Đống Minh Đ1, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Đống Thị T đối với Ông Đống Minh M.
- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/12/2015 giữa Bà Đống Thị T với Ông Đống Minh Đ1 và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 29/7/2019 giữa Ông Đống Minh Đ1 với Ông Đống Minh M đối với thửa 113, 132, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp C, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre.
- Buộc Ông Đống Minh Đ1, Ông Đống Minh M phải hoàn trả lại cho Bà Đống Thị T quyền sử dụng đất thửa 113, 132, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp C, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre. Bà Đống Thị T được toàn quyền sử dụng đối với thửa 113, tờ bản đồ số 11, diện tích 2954,lm2 tọa lạc tại ấp C, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre
|
33-48
|
5
|
Bản án số: 137/2022/DS-PT ngày: 23-9-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
V/v: “Hủy hợp đồng tặng cho QSDĐ”
Nội dung:
Năm 1998 gia đình bà P có nhu cầu mua đất tại huyện Xuân Lộc nên bà P có nhờ ông Phạm Bá T1 tìm mua đất tại huyện Xuân Lộc. Vì ông T1 là em ruột của bà P nên bà P tin tưởng đã giao toàn bộ việc giao dịch cũng như làm các thủ tục giấy tờ cho ông T1. Khoảng năm 1998, ông T1 có mua cho bà P 16.559m2 đất nông nghiệp, thuộc các thửa đất số 151,152,154 và 123, tờ bản đồ số 50, tại xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, đến ngày 03/5/2000 bà P được Ủy ban nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: Q333216 đứng tên Hộ bà Phạm Thị P. Trong số diện tích đất trên, vào năm 2005 bà P có chuyển nhượng lại cho bà Nguyễn Thị O diện tích đất 7.526 m2, thuộc các thửa đất số 152,154 và 123, tờ bản đồ số 50, xã X. Sau khi chuyển nhượng đất cho bà O, bà P có cho ông T1 số tiền là 37.000.000 đồng, phần diện tích đất còn lại là 9.033 m2 bà P để lại làm nơi chôn cất người thân trong gia đình. Đến ngày 20/4/2005, tại nhà của bà Nguyễn Thị H1 là mẹ ruột của bà P, bà P đã lập bản cam kết để diện tích đất 9.033 m2 làm nơi chôn cất những người thân trong
gia đình và giao bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất số 151 cho mẹ ruột giữ có sự chứng kiến của bà Nguyễn Thị M, bà Phạm Thị U và ông Phạm Bá T1 là chị em ruột của bà P. Sau khi bà P sang nhượng đất cho bà O, bà P có giao bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Q333216 cho ông T1 làm thủ tục sang tên tách thửa cho bà O, vì bà P ở Biên Hòa lại không biết các thủ tục giấy tờ, nên lợi dụng việc này ông T1 đã đưa cho vợ chồng bà P các giấy tờ ký khống để ông T1 giả làm một hợp đồng tặng cho vợ chồng ông T1 diện tích đất 9.033m2, thửa đất 151, tờ bản đồ số 50 mà trước đây bà P hứa làm đất chôn cất người thân trong gia đình. Nay bà P xác định bà chưa bao giờ cho vợ chồng ông T1 thửa đất nói trên.
Đối với hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số: 100; Quyển số 01 TP/CC-SCT/HĐGD do Ủy ban nhân dân xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai ký ngày 22/8/2007 là giả mạo nên bà P yêu cầu Tòa án tuyên hủy hợp đồng trên và yêu cầu buộc các đồng thừa kế là bà Nguyễn Thị H, chị Phạm Thị Tuyết A và anh Phạm Quốc Đăng Q là người đang quản lý, sử dụng diện tích đất trên phải giao trả cho bà P, ông Đ, ông T và bà T3 diện tích đất 9.033m2, thửa đất số 151, tờ bản đồ số 50, tại xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, trên đất hiện có 07 ngôi mộ. Nếu yêu cầu của bà P được chấp nhận thì hậu quả của việc hủy hợp đồng số: 100 bà P không có ý kiến hay yêu cầu gì. Riêng 3000 cây tràm bà H trồng năm 2019, thời điểm này bà P đã làm đơn khởi kiện tại Tòa án đang là đất trống, nay bà H tự trồng cây tràm trên đất không thông báo cho Tòa án và bà P biết. Tuy nhiên, nếu yêu cầu của bà P được chấp nhận, bà P sẽ tự nguyện thanh toán lại giá trị cây tràm trên đất cho bà H theo giá của công ty thẩm định giá.
Tòa án sơ thẩm tuyên:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị P.
- Tuyên hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số: 100; Quyển số 01 TP/CC-SCT/HĐGD do Ủy ban nhân dân xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai ký ngày 22/8/2007 đối với diện tích đất 9.033m2, thửa đất 151, tờ bản đồ số 50, tại xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, trên đất hiện có 07 ngôi mộ và 3000 cây tràm trồng năm 2019. Tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: AK 609437 do Ủy ban nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai cấp ngày 24/9/2007 cho ông Phạm Bá T1 và bà Nguyễn Thị H.
- Trong thời hạn 06 tháng sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật buộc bà
Nguyễn Thị H, chị Phạm Thị Tuyết A và anh Phạm Quốc Đăng Q phải giao trả cho Hộ bà Phạm Thị P diện tích đất 9.033m2, thửa đất 151, tờ bản đồ số 50, tại xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, trên đất hiện có 07 ngôi mộ và 3000 cây tram trồng năm 2019.
- Bà Phạm Thị P có nghĩa vụ thanh toán giá trị cây tràm là 27.000.000
đồng cho bà Nguyễn Thị H, chị Phạm Thị Tuyết A và anh Phạm Quốc Đăng Q.
- Về hậu quả của hợp đồng vô hiệu do giả tạo dẫn đến hợp đồng vô hiệu do lỗi của bà P, bà H, ông T1 nên không xem xét thiệt hại xảy ra.
Tòa án phúc thẩm tuyên:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị P.
2. Tuyên hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số: 100; Quyển số 01 TP/CC-SCT/HĐGD do Ủy ban nhân dân xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai ký ngày 22/8/2007 giữa bà Phạm Thị P, ông Nguyễn Văn Đ, bà Nguyễn Phạm Thiên T, ông Nguyễn Phạm Đại T, bà Trương Thị Thu T4 với ông Phạm Bá T1, bà Phạm Thị H đối với diện tích đất 9.033m2, thửa đất 151, tờ bản đồ số 50, tại xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
3. Trong thời hạn 06 (sáu) tháng sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật, buộc bà Nguyễn Thị H, chị Phạm Thị Tuyết A và anh Phạm Quốc Đăng Q phải giao trả cho bà Phạm Thị P, ông Nguyễn Văn Đ, bà Nguyễn Phạm Thiên T, ông Nguyễn Phạm Đại T diện tích đất 8475m2 được giới hạn bởi các mốc 1,2,3,a,b,c,5,6,7,8,9,10,11,1 thuộc thửa đất số 151, tờ bản đồ số 50, tại xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, trên đất có 07 (bảy) ngôi mộ và 3000 (ba ngàn) cây tràm trồng vào năm 2019 (theo Bản đồ hiện trạng khu đất số 4450/2022 ngày 19/8/2022 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai - Chi nhánh huyện Xuân Lộc).
4. Bà Phạm Thị P tự nguyện thanh toán cho bà Nguyễn Thị H, chị Phạm Thị Tuyết A và anh Phạm Quốc Đăng Q giá trị cây tràm là 27.000.000 (hai mươi bảy triệu) đồng.
5. Về chi phí tố tụng: Bà Nguyễn Thị H phải hoàn trả cho bà Phạm Thị P chi phí tố tụng số tiền là 22.208.000 (hai mươi hai triệu hai trăm lẻ tám nghìn) đồng.
6. Bà Phạm Thị P, ông Nguyễn Văn Đ, bà Nguyễn Phạm Thiên T, ông Nguyễn Phạm Đại T có nghĩa vụ liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
|
49-59
|
6
|
Bản án số 08/2022/DS-PT ngày: 24/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum
V/v “Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và nhà ở”
Nội dung:
Ông Võ Đình L và các em là bà Võ Thị C, Võ Thị Th là các con của ông Võ Đình Th (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1934. Vào khoảng năm 1985 ông L mua một lô đất có diện tích 488m2, tại địa chỉ: Số 50 NSS, phường Q, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Đến năm 1986 ông L bắt đầu xây dựng nhà ở với diện tích 28m, mỗi năm ông lại tiến hành tu bổ dần thành hiện trạng nhà như bây giờ, thời điểm này ông chưa làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho mảnh đất trên. Năm 1987 ông đưa mẹ là bà Nguyễn Thị Đ và em gái là Võ Thị Th từ dưới tỉnh Bình Định lên số nhà 50 NSS, thành phố Kon Tum để tiện thể chăm sóc mẹ. Bản thân ông có 02 (hai) đời vợ và 07 (bảy) người con, ông muốn để lại lô đất và nhà trên để làm từ đường hương khói cho tổ tiên, không muốn các con tranh dành tài sản này nên năm 1999 ông đã để mẹ là bà Nguyễn Thị Đ đứng tên thay ông trên giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số 03, tờ bản đồ số 47, diện tích 488m2. Đến năm 2010 bà Nguyễn Thị Đ phát bệnh nặng, từ đó đến nay bà không kiểm soát được hành vi của mình, chỉ nằm một chỗ, đầu óc không được tỉnh táo. Trong thời gian dài ông và các em chăm sóc mẹ. Đến khoảng đầu năm 2020 ông và các em là bà Võ Thị C, Võ Thị Th mới biết mẹ ông là bà Nguyễn Thị Đ tặng cho Quyền sử dụng đất và nhà ở nêu trên cho anh Võ Bảo  là con trai của ông theo hợp đồng tặng cho ngày 17/3/2018. Sau đó, Sở tài nguyên môi trường tỉnh Kon Tum đã cấp cho anh Võ Bảo  và chị Nguyễn Hoàng Tố Q, Giấy chứng nhận quyền đất và nhà ở số CM80326, số vào sổ cấp GCN: CS03795, ngày 05/4/2018. Khối tài sản trên là công sức ông trực tiếp tạo dựng nên, nhưng ông không biết gì về việc bà Đ tặng cho con trai ông là anh Võ Bảo  và thời điểm tặng cho tài sản thì mẹ ông là bà Nguyễn Thị Đ hoàn toàn không đủ minh mẫn để thực hiện việc tặng cho. Vì vậy, ông đề nghị Tòa án giải quyết hủy hợp đồng tặng cho ngày 17/3/2018 giữa bà Nguyễn Thị Đ và anh Võ Bảo  được công chứng viên Quách Cao Y thực hiện công chứng hợp đồng tặng cho.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:
Chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu về việc “Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và nhà ở” giữa bà Nguyễn Thị Đ với anh Võ Bảo  của nguyên đơn ông Võ Đình L, đơn đề ngày 17/11/2020. Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và nhà ở ngày 17/3/2018 giữa bà Nguyễn Thị Đ và anh Võ Bảo  do văn phòng Công chứng NTN, tỉnh Kon Tum chứng thực. Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Kon Tum, Chi Nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố Kon Tum, căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng và nhà ở đã cấp cho anh Võ Bảo  và chị Nguyễn Hoàng Tố Q, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nhà ở số CM800236, số vào sổ cấp GCN: CS03795, ngày 05/4/2018 đứng tên bà Nguyễn Thị Đ. Ông Võ Đình L phải trả cho anh Võ Bảo  và chị Nguyễn Hoàng Tố Q số tiền 28.420.877 đồng.
Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:
Chấp nhận một phần kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ chị Nguyễn Hoàng Tố Q đề ngày 12/9/2021. liên quan Hủy một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 61/2021/DS-ST, ngày 31/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum về phần ông Võ Đình L phải trả cho anh Võ Bảo  và chị Nguyễn Hoàng Tố Q số tiền 28.420.877 đồng, 2. Căn cứ khoản 11 Điều 26; Điều 34; Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Căn cứ Điều 122; Điều 125; Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015. Căn cứ Điều 100, Điều 167 Luật Đất đai năm 2013; Căn cứ Điều 8; Điều 17; Điều 40; Điều 41; Điều 44; Điều 46; Điều 48; Điều 63; Điều 64 Luật Công chứng 2014. Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu về việc “Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và nhà ở” giữa bà Nguyễn Thị Đ với anh Võ Bảo A của nguyên đơn ông Võ Đình L, đơn đề ngày 17/11/2020. Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và nhà ở ngày 17/3/2018 giữa bà Nguyễn Thị Đ và anh Võ Bảo  do văn phòng Công chứng NTN, tỉnh Kon Tum chứng thực vô hiệu. Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Kon Tum, Chi Văn phòng Đăng ký đất đại thành phố Kon Tum, căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng và nhà ở đã cấp cho Võ Bảo  và chị Nguyễn Hoàng Tố Q, Giấy chứng nhận quyền đất và nhà ở số CM800236, số vào sổ cấp GCN: CS03795, ngày 05/4/2018 đứng tên bà Nguyễn Thị Đ
|
60-72
|
7
|
Bản án số: 22/2021/DSPT ngày: 15/11/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.
V/v: “Yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho tài sản”
Nội dung:
Ông là con của cụ Võ Thị Q và cụ Nguyễn C. Khi cha ông còn sống, cụ đã làm đơn khởi kiện vợ chồng anh Nguyễn Th, chị Võ Thị Ngọc Hà yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Trong thời gian chuẩn bị xét xử sơ thẩm, ngày 20/01/2021 cha ông chết. Vì vậy ông, mẹ ông và các anh chị em ông tiếp tục yêu cầu khởi kiện của cha ông. Ngày 28 tháng 8 năm 2007, cha mẹ ông được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) tại thửa đất số 780, tờ bản đồ số 25, diện tích 869,0m2 (trong đó có 200m2 đất ở và 669,0m2 đất trồng cây lâu năm) tại thôn Đ, xã Hoài M, thị xã H, tỉnh Bình Định. Ngày 14/6/2016, cha mẹ ông làm hợp đồng tặng cho toàn bộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho vợ chồng anh Nguyễn Th, chị Võ Thị Ngọc H. Hợp đồng được UBND xã Hoài M chứng thực vào ngày 14/6/2016. Nay ông và các nguyên đơn yêu cầu hủy Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa cụ C, cụ Q với vợ chồng anh Th, chị H vì Hợp đồng tặng cho nói trên không có sự đồng thuận của các anh chị em trong gia đình trong đó có ông và bà Nguyễn Thị L1 (vợ ông Nguyễn Văn Th1). Ông và các nguyên đơn thống nhất giao cho vợ chồng anh Th, chị H phần đất và nhà do vợ chồng anh Th đang sử dụng bao gồm cả phần mái hiên nuôi vịt. Phần còn lại vợ chồng anh Th phải trả lại cho cha mẹ.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của cụ C, cụ Q. Tuyên bố Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 14/6/2016 giữa vợ chồng cụ C với vợ chồng anh Th vô hiệu một phần (phần liên quan đến ông B và ông Th1).
Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:
Không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
1. Tuyên bố Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 14/6/2016 giữa vợ chồng cụ Nguyễn C, Võ Thị Q với vợ chồng anh Nguyễn Th, chị Võ Thị Thu H vô hiệu một phần (phần liên quan đến ông Nguyễn B và ông Nguyễn Th1).
2. Giao cho cụ Võ Thị Q và hàng thừa kế thứ nhất của cụ C được quyền sử dụng phần đất có diện tích 320,1 m2 (trong đó có 80 m2 đất ở và 240,1 m2 đất vườn) trên đất có nhà do cụ Q đang quản lý sử dụng thuộc thửa đất số 780, tờ bản đồ 25 tại thôn Đ, xã H, thị xã H, có kích thước và giới cận như sau:
Đông giáp phần đất nhà nước chưa giao quyền dài 14 m; Tây giáp đường bê tông liên xã dài 5,77 m; 3,83 m; 0,57 m; và 1,41 m; Nam giáp phần đất còn lại cùng thửa dài 7,19 m; 20,78 m; Bắc giáp thửa 778 dài 7,74 m; 13,63 m và 5,52 m.
3. Giao cho vợ chồng anh Nguyễn Th, chị Võ Thị Thu H phần đất có diện tích 481,4 m2 (đất ở: 120 m2; đất vườn: 361,4 m2), giới cận:
Đông giáp phần đất nhà nước chưa giao quyền dài 10,81 m; 3,85 m và 2,50 m; Tây giáp đường bê tông liên xã dài 1,86 m; 6,82 m; 3,79 m; 4,74 m và 1,10 m; Nam giáp thửa 807 phần đất còn lại cùng thửa dài 7,63 m; 15,19 m và 4,79 m; Bắc giáp phần đất giao cho cụ C dài 7,19 m và 20,78 m. (phần đất giao cho vợ chồng anh Th hiện vợ chồng anh Th đang quản lý sử dụng)
|
73-79
|
8
|
Bản án số: 30/2021/DS-PT ngày 16-4-2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định
V/v: “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất”
Nội dung:
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 01/QĐ - DSST ngày 21/07/2016 của Tòa án nhân dân huyện Nam Trực theo đó ông Vũ Thanh H và vợ là bà Phạm Thị Hải có địa chỉ tại tổ dân phố số 02, thị trấn N, huyện Nam Trực có trách nhiệm liên đới thanh toán cho bà số tiền cả gốc và lãi là 112.500.000 đồng và lãi suất chậm trả. Bà đã có đơn yêu cầu thi hành án gửi đến NLQ1. Theo như cán bộ thi hành án cho biết đã nhiều lần làm việc với ông H, bà Hải nhưng ông bà vẫn không thi hành khoản tiền nêu trên. Đến cuối năm 2017, bà được chấp hành viên thông báo trong trường hợp ông Hải, bà Hóa không thi hành, thì Thi hành án Dân sự huyện Nam Trực sẽ tiến hành cưỡng chế nhà và đất. Theo bà được biết thì NLQ1 Nam Trực đã họp liên ngành để bàn phương án cưỡng chế đối với quyền sử dụng đất ở và căn nhà mái bằng cùng các công trình phụ được xây dựng trên đất. Nhưng sau đó NLQ1 cho biết vào ngày 27/10/2017 ông H, bà Hải đã lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho con trai là Vũ Văn D và con dâu là chị Trần Thị L. Cụ thể theo hợp đồng này ông H, bà Hải đã tặng cho 200 m2 quyền sử dụng đất ở và căn nhà mái bằng cùng công trình phụ trợ xây dựng trên đất cho con trai và con dâu của mình. Bà cho rằng hành vi trên là nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ thi hành án và tẩu tán tài sản. Để bảo vệ quyền lợi thi hành án của mình, bà đã làm đơn đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số 605526 mà Sở Tài nguyên và Môi trường đã cấp cho anh Vũ Văn D và chị Trần Thị L vào ngày 23/01/2018.
Tòa án cấp sở thẩm tuyên:
1. Xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T: Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 27/10/2017 giữa bên tặng cho là ông Vũ Thanh H cùng vợ là bà Phạm Thị Hải và bên được tặng cho là anh Vũ Văn D cùng vợ là chị Trần Thị L là vô hiệu.
2. Kiến nghị Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh Nam Định thu hồi GCNQSDĐ quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số sêri CG 605526 đã cấp cho anh Vũ Văn D và chị Trần Thị L vào ngày 23/01/2018.
Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:
Giữ nguyên bản án sơ thẩm
|
80-88
|