DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT

TỔNG HỢP 27 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU
Ngày đăng: 07/06/2020

FDVN tiếp tục chia sẻ "TỔNG HỢP 27 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU" do các Luật sư/ Chuyên viên pháp lý FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu và công tác. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và các mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

TỔNG HỢP CÁC BẢN ÁN VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU

STT

TÊN BẢN ÁN

SỐ TRANG

1

Bản án số 107/2019/HS-PT ngày 13/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn S về hành vi chặt phá cây của bị hại Hoàng Văn A.

Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên bị cáo H và S tuyên phạt 06 tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”. Bị cáo có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên xét xử phúc thẩm, Tòa án xét thấy các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên chấp nhận kháng cáo của các bị cáo. Tuyên phạt H, S - 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Hủy hoại tài sản”.

1

2

Bản án số 120/2019/HS-PT ngày 22/10/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiên Giang đối với bị cáo Lê Thị C có hành vi chiếm giữ tài của bị hại Bế Thị Ánh T.

Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên phạt bị cáo C - 03 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” nhưng cho hưởng án treo. Bị hại T có đơn kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt và không cho bị cáo C được hưởng án treo.

Tại Bản án phúc thẩm, Tòa án nhận định bị cáo không đe dọa hay dùng vũ lực hoặc thủ đoạn để uy hiếp tinh thần làm tê liệt ý chí kháng cự của người khác để chiếm đoạt tài sản. Vụ án xảy ra có một phần lỗi của bị hại trong việc không thanh toán số nợ, bản thân bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Tuyên phạt bị cáo C - 01 năm tù cho hưởng án treo về tội “Chiếm giữ tài sản trái phép”.

8

3

Bản án số 72/2019/HS-ST ngày 10/9/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đối với các bị cáo Trần Văn C1, Đỗ Văn C2, Chu Đình H về hành vi khống chế và bắt giữ bị hại Nguyễn Minh A, Ngân Khánh L nhằm nhằm đòi tiền Lữ Duy T.

Tại phiên xét xử sở thẩm, Viện kiểm soát đề nghị truy tố bi cáo C1, C2, H về tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” đề nghị xử phạt C1 - 06 năm 06 tháng đến 7 năm tù, C1 từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù, H từ 05 năm đến 06 năm 06 tháng tù. Tòa án nhận định bị các bị cáo không bàn bạc, không sắp xếp hay phân công nhau, không có sự cấu kết chặt chẽ nên chỉ là đồng phạm giản đơn đồng thời bị cáo C1 và C2 có công phát giác tội phạm. Tòa án tuyên các bị cáo phạm tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” tuyên phạt C1, C2 - 03 năm tù, H - 05 năm tù.

14

4

Bản án số 105/2019/HS-PT ngày 15/8/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đối với hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Đ có hành vi bắt bị hại Ngô Văn L, thực hiện hành vi dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản.

Tại Bản án sơ thẩm tuyên Đ, S phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” và tội “Đánh bạc”. Tổng hình phạt cho Đ là 08 năm 06 tháng tù, S - 05 năm tù. Viện kiểm sát có đơn kháng nghị yêu cầu hủy một phần bản án để điều tra lại Đ, S phạm tội “Cướp tài sản”.

Tại Bản án phúc thẩm, Tòa án nhận định hành vi bắt giữ, đưa bị hại đến nơi vắng người qua lại, thực hiện hành vi dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu đặc trưng của tội “Cướp tài sản”. Tòa án chấp nhận kháng cáo của Viện kiểm sát tuyên Đ, S phạm tội “Cướp tài sản” và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra lại.

23

5

Bản án số 46/2019/HS-ST ngày 25/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đối với bị cáo Danh A có hành vi dùng dao sếp kề vào cổ bị hại Nguyễn Hào H nhằm mục đích chiếm đoạt chiếc ô tô trị giá 400.000.000 đồng. Bị cáo chưa chiếm đoạt được tài sản thì bị phát hiện và bắt giữ. Việc bị cáo không chiếm đoạt dược tài sản là ngoài ý muốn của bị cáo. Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương tuyên phạt 7 (bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”.

39

6

Bán án số 308/2019/HS-PT ngày 05/6/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh đối với các bị cáo Huỳnh Công Th, Huỳnh Minh Th1, Trần Thế Kinh L, Phan Mộng H2, Nguyễn Thị Thu H4, Nguyễn An N1, Mai Thị Ngọc H6, Hoàng Thái H8, Tạ Minh Ng1 về các hành vi thành lập và sử dụng tư cách pháp nhân của 03 công ty lập khống các bộ hồ sơ để vay vốn và hồ sơ giải ngân để ký các Hợp đồng tín dụng  nhằm để BIDB TSG, ký khống hợp đồng, hóa đơn,… nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản,…

Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên bị cáo Th, Th1, L, H2, H4, N1, H6, phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; các bị cáo H2, H8, Ngl, H7 phạm tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động, của các tổ chức tín dụng”. Tuyên phạt Th tù chung thân với cả hai tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội“Làm giả con dấu tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Bị cáo Th1, L - 04 năm tù, bị cáo H4 - 12 năm tù, các bị cáo N1, H2, H6 - 03 năm tù, H8 - 08 năm tù, H7 và Ng1 - 05 năm tù. Các bị cáo Th, Th1, L, H2, H4, N1, H6, H7, H8, Ng1, đều có kháng cáo.

 Tại Bản án phúc thẩm, Tòa án nhận định các hành vi của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, trọng, gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của các tổ chức tín dụng, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đúng hành vi phạm tội, tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, vai trò của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hoàn cảnh và nhân thân của từng bị cáo.

Bán án phúc thẩm số 308/2019/HS-PT ngày 05/6/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Th, Th1, L, H2, H4, N1, H6, H7, Ng1, H8. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm đồng thời tuyên Th, L, H2, H4, B1, H6 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, H2, H8, Ng1 H7 phạm tội “Vi  phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”.

45

7

Bản án số 387/2019/HS-PT ngày 28/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đối với bị cáo Nguyễn Thị N đã có hành vi đe dọa tung ảnh nhạy cảm của bị hại Mè Văn Đ nhằm chiếm đoạt tài sản.

Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên phạt Nguyễn Thị N 20 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Bị cáo có đơn kháng cáo xin giả nhẹ hình phạt.

Tại Bản án phúc thẩm, Tòa án nhận định mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định là có phần nghiêm khắc nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa quyết định của Bản án sơ thẩm, tuyên phạt bị cáo N 15 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

111

8

Bản án số 260/2019/HS-PT ngày 08/5/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao Hà Nội đối với bị cáo Trần Đức Ch đã có hành vi nhận tiền do Ocean Bank chi chăm sóc khách mà không báo cáo, không nộp và hạch toán vào nguồn thu của Viện Dầu khí Việt Nam mà sử dụng vào mục đích cá nhân.

 Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên phạt bị cáo 18 tháng tù về tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo Ch có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Viện trửởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội kháng nghị tăng hình phạt vì cho rằng còn nhiều tình tiết tăng nặng như phạm tội nhiều lần, mức phạt không phù hợp với hành vi phạm tội.

Tại Bản án phúc thẩm, Tòa án nhận định bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần nhưng Bản án sơ thẩm chưa áp dụng nên Hội đồng xét xử sẽ áp dụng bổ sung. Vụ án có tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo có phần hạn chế, thụ động do bị cáo không phải là người quyết định chủ trương gửi tiền của VPI vào Ocean Bank, việc bị cáo phạm tội cũng một phần do chính sách “chăm sóc khách hàng” của Ocean Bank, bị cáo không tạo sức ép, không vòi vĩnh để được nhận số tiền này.

Do đó, Tòa án không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, tuyên phạt Trần Đức Ch mức án 18 tháng tù về tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”.

118

9

Bản án số 53/2019/HS-PT ngày 22/4/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ đối với bị cáo Lê Thanh T đã có hành vi giật lấy điện thoại của bị hại.

Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên phạt T 06 tháng tù về tội “Công nhiêm chiếm đoạt tài sản”. Bị hại có đơn kháng cáo xin giảm mức hình phạt cho bị cáo.

Tại Bản án phúc thẩm, Toàn án nhận định do không có kháng cáo, kháng nghị tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo thể hiện thái độ thách thức đối với lực lượng giữ gìn trật tự và an toàn tại địa phương, thách thức cộng đồng xã hội. Tòa án nhân dân tỉnh Cần Thơ không chấp nhận kháng cáo của bị hại giữ nguyên bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo Lê Thanh T phạm tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản”.

125

10

Bản án số 88/2019/HS-PT ngày 07/03/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo Đặng Trần H, Đặng Thị Ngọc L1 về hành vi sử dụng trái phép tài sản.

Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên H - 05 năm 09 tháng 28 ngày, L1 - 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Sử dụng trái phép tài sản”. Bị cáo H, L1 kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm vì bị cáo không phạm tội. Bị hại kháng cáo toàn bộ bản án vi cho rằng bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tăng hình phạt.

Tại Bản án phúc thẩm, Tòa án nhận định việc điều tra không đầy đủ, lời khai mâu thuẫn chưa làm rõ Tòa án cấp sơ thẩm không hoãn phiên tòa mà tiếp tục xét xử và tuyên các bị cáo Đặng Trần H, Đặng Thị Ngọc L1 phạm tội “Sử dụng trái phép tài sản”. Do đó, Tòa án nhân dân cấp cao thành phố Hồ Chí Minh tuyên hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Viện kiểm sát thành phố Hồ Chí Minh để chuyển cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao điều tra.

128

11

Bản án số 32/2019/HS-ST ngày 21, 22/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đối với các bị cáo Vũ Mạnh T, Nguyễn Hoài G, Phạm Xuân Q, Đinh Văn N phạm tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”.

Tại phiên xét xử sơ thẩm, Tòa án nhận định với vai trò là lãnh đạo Công ty cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn, bị cáo T cùng đồng bọn là các bị cáo G, Q, N đã quyết định gửi tiền của Công ty BSR vào ngân hàng Ocean Bank, do đó đã được Tổng giám đốc Ocean Bank chi tiền ngoài hợp đồng – tiền chi chăm sóc khách hàng, cụ thể: T đã nhận và chiếm đoạt 2,9 tỷ đồng và 40.000 USD; G đã nhận và chiếm đoạt 2,9 tỷ đồng; Q đã nhận và chiếm đoạt 1,8 tỷ đồng và 20.000 USD; N đã nhận và chiếm đoạt 1,3 tỷ đồng. Tại Bản án sơ thẩm Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội tuyên bị cáo T, G, Q, N phạm tội “Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản”. Tuyên bị cáo Vũ Mạnh T - 08 năm tù, bị cáo Nguyễn Hoài G – 07 năm tù, bị cáo Phạm Xuân Q - 06 năm tù, bị cáo Đinh Văn N - 04 năm tù.

141

12

Bản án số 02/2019/HS-PT ngày 16/01/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đối với bị cáo Nguyễn Văn Sĩ T đã có hành vi vào phòng trọ của bị hại Trương Thị Mỹ HI dùng vũ lực đe dọa để thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn của chị Hl và có hành vi lén lút vào nhà Trần Văn K, trộm cắp một số tài sản.

Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên tổng hình phạt cho cả hai tội danh là 03 năm 06 tháng tù về tội “Hiếp dâm” và “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo có đơn kháng cáo nêu án xử nặng và xin giảm nhẹ án .

Tại phiên xét xử phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai không chấp nhận kháng cáo của bị cáo T, giữ nguyên bản án sơ thẩm, tuyên Nguyễn Văn Sĩ T phạm tội “Hiếp dâm”“Trộm cắp tài sản” tổng hợp hình phạt cho cả hai tội là 03 năm 06 tháng tù.

158

13

Bản án số 04/2019/HS-PT ngày 03/01/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo Nguyễn Thị Quỳnh G có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 

Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên phạt G - 15 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo G có đơn kháng cáo yêu cầu hủy Bản án sơ thẩm, cho rằng mình không phạm tội.

Tại Bản án phúc thẩm, Tòa án nhận định cơ quan điều tra phải làm rõ mốc thời gian bị cáo không có khả năng thanh toán bị cáo có thực hiện việc vay mượn  tiền, các giao dịch khác để chiếm đoạt tài sản hay không? bị cáo dùng Fax của Lã Quốc T7, dùng khế ước vay tiền của ngân hàng từ thời gian nào để gian dối chiếm đoạt tài sản của bị hại. Bị cáo có bỏ trốn không tư đó mới có căn cứ xử lý. Tòa án tuyên chấp nhận kháng cáo của bị cáo G, hủy Bản án sơ thẩm, giao toàn bộ hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra lại vụ án.

164

14

Bản án số 106/2018/HS-PT ngày 18/12/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đối với bị cáo Phan Minh T dùng thủ đoạn chiếm đoạt tài sản của hại hại Nguyễn Thị T.

Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án nhân dân tuyên phạt T - 15 tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị đề nghị tăng mức hình phạt đối với bị cáo.

Tại Bản án phúc thẩm, Tòa án nhận định số tiền chiếm đoạt là lớn nhưng cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 15 tháng tù là nhẹ nên chấp nhận kháng cáo của Viện kiểm sát và tuyên phạt bị cáo T - 03 năm tù về tội “Cướp tài sản”.

184

15

Bản án số 89/2018/HS-PT ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đối với bị cáo Phạm Văn P, Đặng Văn H có hành vi đột nhập nhà Hoàng Thị H, Nguyễn Văn H nhằm trộm cắp tài sản.

Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên  P - 36 tháng tù và bị cáo H - 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo P, H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại Bản án phúc thẩm, tòa án nhận định bị cáo P, H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có thêm tình tiết mới chưa được Bản án sơ thẩm xem xét nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ để chấp nhận. Do đó, Bản án phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ y Bản án sơ thẩm.

188

16

Bản án số 396/2018/HS-ST ngày 18/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên tỉnh Thái Nguyên đối với bị cáo Hà Văn T về hành vi trộm cắp tài sản của bị hại tại trường Cao đăng Kinh tế - Tài chính Thái Nguyên.

 Tại phiên xét xử sơ thẩm, Tòa án tuyên phạt bị cáo Hà Văn T - 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

196

17

Bản án số 149/2018/HS-ST ngày 11/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh thành phố Bình Dương đối với bị cáo Nguyễn Văn K, Lê Minh N có hành vi trộm cắp tài sản.

Tại phiên xét xử sơ thẩm, Tòa án nhận  định vì các bị cáo có động cơ tư lợi, bản chất tham lam, lười lao động, muốn có tiền tiêu xài mà không phải tốn công sức lao động nên thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Tòa án tuyên K, N - 14 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”

202

18

Bản án sơ thẩm số 19/2018/HS-ST ngày 09/05/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Phú tỉnh Bình Phước đối với bị cáo Nguyễn Văn T lợi dụng sơ hở và hoàn cảnh khó khăn trong việc truy đuổi của người bị hại để công khai chiếm đoạt tài sản. Trước đó, bị cáo bị tuyên án về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 32/2015/HSPT ngày 08/4/2015. Bản án sơ thẩm tuyên bị cáo T phạm tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản”, buộc bị cáo T phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là 03 năm 06 tháng tù.

213

19

Bản án số 02/2018/HS-PT2 ngày 05/4/2018 của Tòa án Quân sự Trung ương đối với bị cáo Lưu Thị Kim N, Lưu Thị Kim C dùng thủ đoạn gian dối đưa ra nhiều thông tin không đúng sự thật về việc có khả năng nắm thông tin các đối tượng phạm tội ma túy và lo cho bị hại không liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy để chiếm đoạt tài sản của bị hại để sử dụng vào mục đích cá nhân.

Tại Bản án sơ thẩm, Toàn án tuyên phạt bị cáo N, C - 08 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ án vì đã cố gắng khắc phục hậu quả của vụ án và điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn. 

Tại Bản án phúc thẩm của Tòa án Quân sự Trung ương nhận định bị cáo N có tự nguyện nộp tiền bồi thường giúp bị cáo C tuy nhiên số tiền không lớn so với khoản tiền C phải bồi thường. Bị cáo N cũng là người khởi xướng, chủ động đưa ra các thông tin gian dối với người bị hại, chủ động cung cấp số tài khoản cho bị hại, chủ động nâng số tiền không đúng số tiền C trao đổi với bị hại. Do đó, Tòa án không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

219

20

Bản án số 550/2017/HSPT ngày 12/10/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo Trần Trung D - Hiệu trưởng Trường Trung cấp Thể dục thể thao thành phố C và các đồng phạm khác có hành vi thiếu trách nhiệm gây thất thoát 1.800.000.000 đồng cho Trường Trung cấp Thể dục thể thao thành phố C.

Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên D, H phạm tội “Tham ô tài sản”, D và L1 phạm tội “Thiếu trách nhệm gây thiệt hại đến tài sản nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp”. Xử phạt bị cáo Trần Trung D - 04 năm tù, bị cáo Huỳnh Hữu H - 02 năm tù .Các bị cáo đều có đơn kháng cáo .

Tại Bản án phúc thẩm, Tòa án nhận định hành vi của các bị cáo thể hiện ý thức xem thường các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tếm xem thường tài sản của Nhà nước, thiệt hại gây ra là đặc biệt lớn. Bị cáo D thể hiện ý thức bất chấp pháp luật, kỷ cương công vụ, bị cáo H bị lệ thuộc vào D chịu sự chỉ đạo trực tiếp của D. Do đó, Tòa án không chấp nhận kháng cáo của D, H đồng thời giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

225

21

Bản án số 62/2017/HS-PT ngày 25/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu đối với bị cáo Trần Thị U vì động cơ vụ lợi và sự thiếu hiểu biết, sự nhẹ dạ, cả tin của nhiều người thông qua hình thức xem bói có hành vi gian dối, lừa gạt chiếm đoạt tài sản.

Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên phạt bị cáo U - 09 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo U có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ án.

Tại Bản án phúc thẩm, Tòa án nhận định bị cáo có đơn xin giảm nhẹ mức án tuy nhiên bị cáo không cung cấp chứng cứ mới để xem xét. Do đó, Bản án phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa một phần Bản án về án phí đồng thời tuyên bị cáo Trần Thị U phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

236

22

Quyết định Giám đốc thẩm sô 30/2017/HS-GĐT ngày 02/8/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đối với bi cáo Trần Công T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, “Chứa chấp và tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có”.

Biên bản nghị án của Hội đồng xét xử phúc thẩm thể hiện không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Công T, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bản án phúc thẩm lại quyết định chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Công T, hủy một phần bản án hình sự sơ thẩm.

Do vậy, hủy một phần Bản án phúc thẩm và một phần Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng xét xử lại.

242

23

Quyết định giám đốc thẩm số 28/2017/HS-GĐT ngày 03/7/2017 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đối với bị cáo Mai Văn D, Phan Thị T về tội “Trộm cắp tài sản”.

Hội đồng định giá tài sản căn cứ vào 03 tiêu chuẩn thẩm định gia, quyết định chế độ quản lý, tính hao mòn tài sản cố định trong các cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và các tổ chức có sử dụng ngân sách Nhà nước để làm căn cứ định giá tài sản là không đúng quy định, văn bản đã hết hiệu lực tại thời điểm định giá. Ngoài ra còn lấy đơn giá vàng tại Cổng thông tin vật giá vì Cổng thông tin vật giá không phải là căn cứ để xác định giá vàng.

Do đó, hủy Bản án hình sự phúc thẩm và Bản án hình sự sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng để điều tra lại.

246

24

Quyết định giám đốc thẩm số 29/2017/HS-GĐT ngày 03/7/2017 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đối với bị cáo Lê Văn D và Ngô Thị L về tội “Bắt giữ người trái pháp luật” và tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng hành vi chiếm đoạt 91.000 đồng của D, L phạm vào tội “Cưỡng đoạt tài sản”, còn hành vi chiếm giữ 01 điện thoại di động hiệu Nokia, 01 chiếc xe mô tô biển kiểm sát 47M9-7870, do tổng giá trị tài sản là 5.700.000đ nên chưa đủ cấu thành tội “Chiếm giữ trái phép tài sản”. Tòa án cấp phúc thẩm lại cho rằng, hành vi buộc ông T viết giấy bồi thường 15.000.000đ, giữ tài sản là chiếc xe mô tô, điện thoại di động là cấu thành tội “Cướp tài sản”, nhận định của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk và Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk là chưa chính xác.

Do đó, hủy Bản án hình sự phúc thẩm và Bản án hình sự sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng để điều tra lại.

251

25

Bản án số 82/2017/HS-PT ngày 22/6/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đối với bị cáo Nguyễn Quốc T đã có hành vi lén lút trộm cắp tài sản là 01 xe mô tô của bị hại Đặng Xuân V, trộm cắp xe mô tô của bị hại Hồ Thị K.

Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên phạt T - 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ án.

Tại Bản án phúc thẩm, Tòa án xét không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo nên không chấp chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

256

26

Quyết định giám đốc thẩm số 12/2016/HS-GĐT ngày 04/8/2016 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đối với bị cáo Trần Thị Quý P phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “Trốn thuế” với mức án là 20 năm 03 tháng tù.

 Về phần xử lý vật chứng là chiếc xe ô tô Volkswagen Tiguan Das Package, biển kiểm soát 81A-00278, Tòa án cấp phúc thẩm giao trả cho bà Đặng Thị Lan P là chưa đúng quy định của pháp luật. Vì chiếc xe này được mua từ tiền tạm ứng của Ban quản lý các dự án đầu tư xây dựng huyện K mà Công ty B của P còn nợ Ban quản lý huyện K nên Hợp đồng chuyển nhượng giữa P và Đặng Thị Lan Phương là trái luật.

Do đó, hủy Bản án hình sự phúc thẩm về phần xử lý vật chứng là chiếc xe ô tô nêu trên và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng để xét xử phúc thẩm lại.

260

27

Bản án số 965/2012/HS-PT ngày 21/9/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đối với bị cáo Trần Phi L, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đức L1, Lương Sơn H, Bùi Thị D có hành vi côn đồ, hung hãn, dùng vũ lực và sử dụng hung khí nguy hiểm để uy hiếp tinh thần nhằm chiếm đoạt tài sản của bị hại là anh H.

Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên phạt L, L1 với mức án 08 năm tù; T, H1 và D - 07 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Bị cáo T và L có kháng cáo cho rằng mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm tuyên là quá nặng và xin giảm nhẹ án.

Tại Bản án phúc thẩm, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội nhận định T và L đều là người bị rủ rê nhưng cả hai thực hành rất tích cực, các bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Phi L và Nguyễn Văn T xin giảm nhẹ án, giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.

266

 

LINK TẢI: TỔNG HỢP 27 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quân Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

336 Phan Chu Trinh, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại Quảng Ngãi:

359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0935 643 666    –  0906 499 446

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

Hotline tư vấn:
Zalo