FDVN giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 07 BẢN ÁN CÓ YÊU CẦU HỦY VI BẰNG ĐÃ LẬP” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
TỔNG HỢP 07 BẢN ÁN CÓ YÊU CẦU HỦY VI BẰNG ĐÃ LẬP
STT |
NỘI DUNG |
TRANG |
1 |
Bản án số: 67/2018/DS-PT ngày 13/4/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai Về: “Yêu cầu hủy vi bằng của Văn phòng Thừa phát lại” Nội dung:
Ngày 30/11/2015, vợ chồng ông bà và ông T đã đến Văn phòng Thừa phát lại B để lập vi bằng. Sau đó, ông T liên hệ và làm các thủ tục tại Văn phòng Thừa phát lại và thông báo rằng Văn phòng Thừa phát lại không đồng ý lập vi bằng theo thỏa thuận hai bên nên đã lập vi bằng bằng cách ghi nhận việc thỏa thuận mua bán đất giữa hai bên chứ hai bên không có thỏa thuận mua bán đất chung như trong vi bằng đã ghi nhận. Do gần hết giờ làm việc của Văn phòng Thừa phát lại nên ông T nói vợ chồng bà ký tên vào vi bằng mà ông bà không đọc lại vì cứ nghĩ là nội dung trong Vi bằng đúng như hai bên đã thỏa thuận ở ngoài và ông bà cũng không được cấp vi bằng. Nay, nhận thấy Vi bằng số 719/VB-TPLBH lập ngày 30/11/2015 không đúng sự thật. Hơn nữa trong vi bằng lại ghi vợ chồng ông bà và ông T có hùn tiền mua chung thửa đất 84, tờ bản đồ số 5 phường Q, thành phố B là sai vì ông Hồng Q là chủ của thửa đất 84, tờ bản đồ số 5 chứ không phải ông bà. Do đó, ông bà yêu cầu Tòa án hủy Vi bằng số 719/VB-TPLBH lập ngày 30/11/2015 tại Văn phòng thừa phát lại B.
Tòa án sơ thẩm tuyên:
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 92/2017/DS-ST ngày 10/8/2017, Tòa án nhân dân thành phố B tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Xuân H1 và bà Nguyễn Thị H đối với Văn phòng Thừa phát lại về việc “Hủy vi bằng”. Hủy vi bằng số 719/VB-TPLBH lập ngày 30/11/2015 tại Văn phòng Thừa phát lại B đối với người yêu cầu lập vi bằng là ông Hoàng Ngọc T, người tham gia vi bằng là ông Trần Xuân H1 và bà Nguyễn Thị H. Ngày 23/8/2017, ông Hoàng Ngọc T có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết theo hướng sửa bản án dân sự sơ thẩm số 92/2017/DS-ST ngày 10/8/2017 của Tòa án nhân dân thành phố B, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tòa án phúc thẩm nhận định:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị định 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại quy định “Vi bằng chỉ ghi nhận những sự kiện hành vi mà Thừa phát lại trực tiếp chứng kiến, việc ghi nhận phải khách quan, trung thực”, nhưng trong trường hợp này thừa phát lại chỉ ghi nhận trình bày của đương sự chứ không trực tiếp chứng kiến việc hai bên cùng nhau hùn tiền để mua đất là chưa phù hợp quy định nêu trên. Mặt khác, nội dung thỏa thuận trong vi bằng là trái quy định của pháp luật vì đã xâm phạm đến quyền lợi của người thứ ba là ông Hồng Q. Từ những phân tích trên, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hủy vi bằng số 719/VB-TPLBH lập ngày 30/11/2015 tại Văn phòng thừa phát lại B là có căn cứ. Nội dung kháng cáo của ông Hoàng Ngọc Tuyên không có cơ sở nên không được chấp nhận.
Tòa án phúc thẩm tuyên:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Xuân H1 và bà Nguyễn Thị H đối với Văn phòng thừa phát lại B về việc “Yêu cầu hủy vi bằng”. Hủy vi bằng số 719/VB-TPLBH lập ngày 30/11/2015 tại Văn phòng thừa phát lại B đối với người yêu cầu lập vi bằng là ông Hoàng Ngọc T, người tham gia vi bằng là ông Trần Xuân H1 và bà Nguyễn Thị H |
1-8 |
2 |
Bản án số: 13/2021/DS-ST ngày 20/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương Về: “Yêu cầu hủy vi bằng của Văn phòng Thừa phát lại” Nội dung:
Ngày 19-4-2021 Văn phòng TPL HD do bà Vương Thị Hồng H là người đại diện theo pháp luật và cũng là thừa phát lại lập vi bằng số 62/2021/VB-TPLHD tại kho Công ty TNHH TT của bà ở Quốc lộ 37, thôn Đồng Khê, xã An Lâm, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Nội dung vi bằng có hình ảnh và nội dung “Vào lúc 15 giờ 27 phút, có một người đàn ông mặc áo màu xanh, tự xưng là bảo vệ đến ngăn cản không cho phép quay phim chụp ảnh và nói đây là cơ sở riêng của công ty” và nội dung “có một người đàn ông mặc áo màu đỏ, tự xưng là bảo vệ đến ngăn cản và yêu cầu bà Phạm Thị B cùng những người có mặt tại đó không được mở kho hàng”. Qua kiểm tra lại camera và bản tường trình của những người có tên trong vi bằng bà thấy nội dung trong vi bằng không đúng với thực tế sự việc xảy ra. Cụ thể người đàn ông mặc áo xanh không tự xưng là bảo vệ, không ngăn cản việc vào kho mà chỉ nói là “ở đây không được quay phim vì đây là cơ sở riêng của công ty”; người áo đỏ là bảo vệ của công ty không ngăn cản và không nói bà Phạm Thị B cùng những người có mặt tại đó không được mở kho hàng mà chỉ nói mọi người ai vào công ty làm gì thì cứ gọi cho bà B sang giải quyết. Trong suốt quá trình lập vi bằng bà Vương Thị Hồng H không có mặt tại kho hàng, không chứng kiến việc lập vi bằng. Do vậy vi bằng số 62 lập ghi nhận không đúng sự kiện diễn ra, không có thừa phát lại chứng kiến. Căn cứ quy định tại Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08-01-2021 bà đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Chí Linh hủy vi bằng số 62/2021/VB-TPLHD ngày 19-4-2021 của Văn phòng TPL HD. Bà không đề nghị giải quyết hậu quả của việc hủy vi bằng.
Tòa án sơ thẩm nhận định:
Xét vi bằng số 62/2021/VB-TPLHD ngày 19-4-2021 thì thấy rằng: Có cơ sở khẳng định nội dung của vi bằng không thể hiện đúng nội dung sự việc thực tế, không thể hiện sự việc khách quan trung thực, nội dung vi bằng không chính xác. Theo quy định tại khoản 1 Điều 39 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08-1-2020 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại quy định “Thừa phát lại phải trực tiếp chứng kiến, lập vi bằng và chịu trách nhiệm trước người yêu cầu và trước pháp luật về vi bằng do mình lập. Việc ghi nhận sự kiện, hành vi trong vi bằng phải khách quan, trung thực. ….” õTừ những phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy căn cứ khoản 8 Điều 37 và khoản 1 Điều 39 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08-1-2020 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại, có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu hủy vi bằng số 62/2021/VB-TPLHD ngày 19-4-2021 của Văn phòng TPL HD
Tòa án sơ thẩm tuyên:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của công ty TNHH TT về việc “ yêu cầu hủy vi bằng của Văn phòng thừa phát lại”. Hủy Vi bằng số 62/2021/VB-TPLHD ngày 19-4-2021 của Văn phòng 7 TPL HD. |
9-15 |
3 |
Bản án số: 830/2019/DS-PT ngày 25/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh Về: “Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản” Nội dung:
Cùng ngày 22/11/2016, cụ Trần Thị T lập hai văn bản thỏa thuận tặng cho bà Trần Thị C (là con gái) 02 lô đất. Sau đó, hai bên lập Vi bằng số 7908/2016/VB-TPL ngày 22/11/2016, bàn giao phần diện tích đất 828,1m2 , thuộc một phần thửa đất số 151 và một phần thửa đất số 152, tờ bản đồ số 01, tọa lạc tại xã Đ huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh vị trí phía đông thửa đất; Vi bằng số 7907/2016/VB-TPL ngày 22/11/2016 bàn giao phần đất diện tích 225,9 m2 thuộc một phần thửa đất số 285, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại xã Đ, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh. Đối với văn bản thỏa thuận ngày 22/11/2016 về tặng cho phần diện tích đất 828,1 m2 : hai bên không thống nhất được vị trí lô đất được tặng cho (hướng đông, hoặc hướng tây thửa đất), nên cụ T tặng cho bà C bằng văn bản di chúc ở hướng tây. Đến tháng 4/2018 bà C đã đổ đất san lấp mặt bằng trên phần đất hướng đông. Đối với văn bản thỏa thuận ngày 22/11/2016 về tặng cho phần đất diện tích 225,9 m2 : để được nhận phần đất này, bà C có nghĩa vụ đổi lại, chia cho 3 ông Trần Văn S (là em trai bà C) phần đất ngang 1,5m dài 30m tọa lạc tại ấp D, xã V, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh, thuộc đất của bà Trần Thị C đứng chủ quyền. Bà C không thực hiện như thỏa thuận, nên cụ T yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu và hủy bỏ 02 văn bản thỏa thuận cùng ngày 22/11/2016, nêu trên – không yêu cầu giải quyết hậu quả pháp lý khi yêu cầu tuyên bố văn bản vô hiệu (biên bản làm việc do Tòa án lập, có ông Trần Văn S – BL số 179). Về di chúc công chứng số 003377 quyển số 03/2017/CC-SCC/HĐGD ngày 06/3/2017, ngày 12/3/2019 cụ Tđã đến Văn phòng công chứng Lý Thị Như Hòa làm văn bản hủy bỏ bản di chúc này.
Tòa án sơ thẩm tuyên:
Bản án dân sự sơ thẩm số 183/2019/DSST ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện H tuyên xử: Tuyên bố văn bản thỏa thuận số 7907/2016/VB-TPL; 7908/2016/VB-TPL ngày 22/11/2016 của Văn Phòng Thừa phát lại huyện H vô hiệu. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tuyên hủy văn bản thỏa thuận số 7907/2016/VB-TPL; 7908/2016/VB-TPL ngày 22/11/2016 của Văn phòng Thừa phát lại huyện H.
Tòa án phúc thẩm nhận định:
Tại phần quyết định Bản án dân sự sơ thẩm số 183/2018/DSST ngày 24 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện H: - Tuyên vô hiệu và hủy bỏ Văn bản thỏa thuận số 7907/2016/VB-TPL và Văn bản thỏa thuận số 7908/2016/VB-TPL cùng ngày 22/11/2016 của Văn phòng Thừa phát lại huyện H, là không rõ ràng; - Bản án sơ thẩm chưa giải quyết hậu quả pháp lý của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu, đối với phần diện tích đất bên bị đơn đã san lấp và trồng một số cây ăn trái – trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm đã giải thích về hậu quả pháp lý của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu, nhưng tất cả các bên đều không yêu cầu giải quyết hậu quả pháp lý của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu, Tòa án phải lập biên bản lưu hồ sơ vụ án và Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu, mà không phải giải quyết hậu quả pháp lý của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Tòa án phúc thẩm tuyên:
Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 183/2018/DSST ngày 24 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản giữa nguyên đơn cụ Trần Thị T và bị đơn bà Trần Thị C; Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. |
16-26 |
4 |
Bản án số: 648/2023/DS-PT ngày 18/9/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh Về: “Tranh chấp tài sản chung và yêu cầu hủy vi bằng của VP Thừa phát lại” Nội dung:
Ngày 17/10/2014, tại Văn phòng Thừa phát lại quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, trước sự chứng kiến của Thừa phát lại, bà Nguyễn Thị S1 và ông Nguyễn Văn S đã lập “Tờ tường trình về phần đất của cha mẹ để lại là tài sản chung chưa chia” kèm theo Vi bằng số 213/2014/VB-VPTPLBT để ghi nhận sự kiện, hành vi với nội dung chính: Phần đất thuộc thừa 116, 117 và 118 nêu trên là tài sản chung của cha mẹ chết để lại, là tài sản chung của ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị S1, đây là tài sản chung chưa chia. Hiện nay, bà Nguyễn Thị S1 đã lập thủ tục điều chỉnh lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp riêng cho cá nhân bà thành tài sản chung của bà và ông S để bà và ông S cùng đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của khối tài sản chung này”. Cùng ngày 17/10/2014, cũng tại Văn phòng thừa phát lại quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, trước sự chứng kiến của Thừa phát lại, bà Nguyễn Thị S1 đã lập “Tờ thỏa thuận về tài sản chung chưa chia” kèm theo Vi bằng số 214/2014/VB- VPTPLBT để ghi nhận sự kiện, hành vi với nội dung chính: “Phần đất thuộc các thửa 116, 117 và 118 là di sản thừa kế của cha mẹ chết để lại đến nay chưa phân chia, dù đã hết thời hiệu chia thừa kế theo quy định của pháp luật”. Sau khi lập Tờ tường trình và Tờ thỏa thuận nêu trên ông S đã nhiều lần yêu cầu bà S1 thực hiện việc phân chia tài sản chung nhưng bà S1 không thực hiện, đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Nay ông Nguyễn Văn S khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia cho ông nhận diện tích đất thuộc các thửa 116, 117, 118, tờ bản đồ 18, tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre. Nguyên đơn đồng ý với việc Tòa án sử dụng kết quả định giá, xem xét thẩm định và đo đạc ngày 07/9/2016 để giải quyết vụ án và không có yêu cầu định giá, xem xét thẩm định và đo đạc lại. Bà S1 có đơn phản tố yêu cầu hủy các vi bằng của Văn phòng Thừa phát lại quận B.
Tòa án sơ thẩm tuyên: Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2023/DS-ST ngày 06/01/2023 của Tòa án án nhân dân tỉnh Bến Tre, đã tuyên xử: 1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn S về tranh chấp chia tài sản chung với bị đơn bà Nguyễn Thị S1. 2/ Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị S1 về yêu cầu cầu tuyên bố vi bằng vô hiệu. 3/ Tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 142/2022/QĐ-BPKCTT ngày 30/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre. Ông Trần Thanh T, bà Trần Phạm Thu N làm đơn kháng cáo, nêu lý do: Bản án sơ thẩm không thỏa đáng, gây thiệt hại cho phía các ông bà, yêu cầu phúc xử lại bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tòa án phúc thẩm nhận định:
Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định nguồn gốc của các thửa đất là của cụ T2, cụ N1 chết để lại là tài sản chung của ông S và bà S1 chưa chia, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông S và chia tài sản chung, trong đó có xem xét đến công sức của người quản lý, tôn tạo đối với phía bà S1, nên bà được chia phần nhiều hơn là phù hợp. Đối với yêu cầu của bà S1 về việc đòi hủy các Vi bằng của Văn phòng Thừa hát phát lại quận B: Văn phòng Thừa phát lại quận B có văn bản xác nhận ngày 17/10/2014, ông S, bà bà S1 có đến văn phòng yêu cầu lập vi bằng ghi nhận hành vi ký tên vào văn bản bản, xác định tờ trình về phần đất của cha mẹ để lại là tài sản chung chưa chiachia và Tờ thỏa thuận về tài sản chung chưa chia. Khi đó ông S và bà S1 hoàn toàn inh minh mẫn và tự nguyện ký tên vào văn bản, nên việc Văn phòng Thừa phát lại ghi ghi nhận hành vi trên là đúng quy định pháp luật. Phía bà S1 cũng đã thừa nhận bà có ký tên vào văn bản, nhưng bà cho rằng bị bị đe dọa, ép buộc, tại cấp sơ thẩm phía bà S1 không đưa ra được những tài liệu liệu,chứng cứ nào chứng minh có việc bị đe dọa, bắt buộc nên Tòa án cấp sơ thẩ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của bà S1, là có căn cứ.
Tòa án phúc thẩm tuyên:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn S về tranh chấp chia tài sản chung với bị đơn bà Nguyễn Thị S1. 2/ Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị S1 về yêu cầu cầu tuyên bố vi bằng vô hiệu. |
27-36 |
Link PDF: TỔNG HỢP 07 BẢN ÁN CÓ YÊU CẦU HỦY VI BẰNG ĐÃ LẬP
………………….
Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 2, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn
Các bài viết khác
- Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Lập luận pháp lý (Legal Reasoning)
- Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia: Đổi mới, nâng cao chất lượng các Tạp chí Luật học
- GIÁO TRÌNH LUẬT QUỐC TẾ VỀ DOANH NGHIỆP
- GIÁO TRÌNH LUẬT DOANH NGHIỆP (Tình huống - Phân tích - Bình luận)
- SÁCH CHUYÊN KHẢO LUẬT KINH TẾ
- LUẬN ÁN TIẾN SĨ: ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG ĐIỀU TRA TỘI PHẠM SỬ DỤNG KHÔNG GIAN MẠNG XÂM PHẠM AN NINH QUỐC GIA CỦA CƠ QUAN AN NINH ĐIỀU TRA, BỘ CÔNG AN VIỆT NAM
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CẤP QUỐC GIA: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN
- GIÁO TRÌNH LUẬT CẠNH TRANH NĂM 2010
- Giáo trình: Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới
- Giáo trình: Kỹ thuật soạn thảo văn bản
- SÁCH CHUYÊN KHẢO: HỆ THỐNG TƯ PHÁP HÌNH SỰ TRONG GIAI ĐOẠN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
- LUẬN ÁN TIẾN SĨ: PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
- LUẬN ÁN TIẾN SĨ: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP NỘI BỘ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN TẠI TÒA ÁN Ở VIỆT NAM
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC: HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI MUA BẤT ĐỘNG SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- TỔNG HỢP 20 BÀI BÁO PHÁP LÝ LIÊN QUAN ĐẾN TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG VÀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM
- Tổng hợp 12 bài báo pháp lý bảo vệ quyền trẻ em trong vụ án bạo lực, bạo hành trẻ em