FDVN giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 12 BẢN ÁN VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
TỔNG HỢP 07 BẢN ÁN LIÊN QUAN ĐẾN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ MÔI GIỚI BẤT ĐỘNG SẢN
STT |
NỘI DUNG |
TRANG |
1 |
Bản án 296/2020/DS-PT ngày 03/12/2020 về tranh chấp hợp đồng dịch vụ của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương Nội dung: Ngày 22/02/2014, Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Khu công nghiệp T (Sau đây gọi tắt là Công ty) thông qua chủ trương về việc thực hiện chi trả tiền môi giới cho hoạt động kêu gọi đầu tư vào khu công nghiệp T. Sau khi làm việc, đánh giá năng lực, Công ty và Ông Phạm Văn B thống nhất ký Biên bản thỏa thuận tư vấn môi giới cho thuê lại đất số 006/TTMG/TBIP ngày 09/11/2015 thời hạn 03 tháng. Đến ngày 08/2/2016, giữa Công ty và Ông Phạm Văn B ký Hợp đồng dịch vụ tư vấn môi giới cho thuê lại đất số 01-2016/HĐMG/TBIP. Thời hạn hợp đồng là 01 năm kể từ ngày ký. Theo nội dung hợp đồng được thể hiện tại Điều 1 - Công ty giao cho ông B thực hiện các dịch vụ trung gian, tìm kiếm đối tác, nhà đầu tư trong và ngoài nước để tham gia đàm phán, ký hợp đồng thuê lại đất thuộc dự án Khu công nghiệp T. Các hoạt động môi giới bao gồm tìm kiếm nhà đầu tư, quảng bá, giới thiệu và hướng dẫn nhà đầu tư đến liên hệ và ký hợp đồng trực tiếp với công ty. Công ty có trách nhiệm cung cấp toàn bộ thông tin, hình ảnh, hồ sơ pháp lý, bảng giá chi tiết và phương thức thanh toán cho ông B. Phí môi giới được thỏa thuận tại Điều 2 hợp đồng, trong đó có thỏa thuận 2% trên tổng giá trị của giá trả ngay, không bao gồm thuế giá trị gia tăng 10% nếu diện tích đất nhà đầu tư thuê dưới 03 ha. Trong quá trình thực hiện hợp đồng môi giới, Ông Phạm Văn B đã thực hiện việc môi giới thành công cho 05 nhà đầu tư. Công ty thừa nhận việc ông B đã môi giới thành công cho năm nhà đầu tư kể trên nhưng không đồng ý trả tiền môi giới. Bị đơn cho rằng thời điểm các nhà đầu tư ký hợp đồng chính thức thuê lại đất với Công ty Cổ phần Khu công nghiệp T thì hợp đồng giữa bị đơn và Ông Phạm Văn B đã hết hiệu lực, giữa bị đơn và nguyên đơn không có văn bản thỏa thuận Tòa án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ông Phạm Văn B về việc tranh chấp hợp đồng dịch vụ môi giới với bị đơn Công ty Cổ phần Khu công nghiệp T. Công ty Cổ phần Khu công nghiệp T có nghĩa vụ trả cho Ông Phạm Văn B số tiền môi giới là 2.177.218.944 đồng (hai tỷ một trăm bảy mươi bảy triệu hai trăm mười tám nghìn chín trăm bốn mươi bốn đồng). Tiền lãi chậm trả tính từ ngày 15/7/2017 đến ngày 30/6/2020 là 644.000.000 đồng (sáu trăm bốn mươi bốn triệu đồng). Tổng số tiền Công ty Cổ phần Khu công nghiệp T phải trả cho Ông Phạm Văn B là: 2.821.218.944 đồng (hai tỷ tám trăm hai mươi mốt triệu hai trăm mười tám nghìn, chín trăm bốn mươi bốn đồng). Tòa án phúc thẩm nhận định: Ngày 08/02/2016, Công ty Cổ phần Khu công nghiệp T ký lại với ông B “Hợp đồng dịch vụ tư vấn môi giới cho thuê lại đất” số 01-2016/HĐMG/TBIP có nội dung giống như “Biên bản thỏa thuận tư vấn môi giới cho thuê lại đất” số 006/TTMG/TBIP ngày 09/11/2015; các mức phí môi giới được ghi tại Điều 2 của hợp đồng, trong đó có thỏa thuận phí dịch vụ môi giới 02% trên tổng giá trị của giá trả ngay, không bao gồm thuế giá trị gia tăng (10%) nếu diện tích đất nhà đầu tư thuê dưới 03 ha; thỏa thuận điều kiện thanh toán, khi chủ đầu tư (thuê đất) ký hợp đồng chính thức thuê đất của Công ty Cổ phần Khu công nghiệp T là được trả phí, trường hợp nếu sau thời gian đặt cọc, nhà đầu tư (thuê đất) không thực hiện ký kết hợp đồng thuê lại đất chính thức với Công ty Cổ phần Khu công nghiệp T thì ông B không được trả phí môi giới; thời hạn hợp đồng là 12 tháng kể từ ngày 08/02/2016. Công ty Cổ phần Khu công nghiệp T thừa nhận ông B môi giới thành công 05 nhà đầu tư thuê đất và bị đơn đã ký hợp đồng nguyên tắc, ký hợp đồng thuê lại đất chính thức với 05 nhà đầu tư này. Công ty đã ký kết hợp đồng cho thuê lại đất chính thức với các nhà đầu tư. Tài liệu, chứng cứ trên và sự thừa nhận của nguyên đơn và bị đơn là tình tiết, sự kiện không cần chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự. Công ty cho rằng, do thời gian ký hợp đồng chính thức với 05 nhà đầu tư khi đã hết hạn hợp đồng với ông B nên ông B không được trả phí. Tuy nhiên, tài liệu chứng cứ tại hồ sơ thể hiện thời gian ký hợp đồng chính thức do Công ty và nhà đầu tư tự thỏa thuận, dựa trên tiến độ bàn giao cơ sở hạ tầng và thủ tục pháp lý do các bên thực hiện; ông B không thể can thiệp (hoặc buộc) các bên ký kết hợp đồng chính thức theo ý thức chủ quan của mình. Việc thỏa thuận trên chỉ quy định nhà đầu tư nếu không ký hợp đồng chính thức thì ông B mới không được trả phí môi giới. Do đó, trường hợp các chủ đầu tư đã được ông B giới thiệu đến và sau ngày 08/02/2017 mới ký hợp đồng chính thức thì Công ty Cổ phần Khu công nghiệp T phải trả phí dịch vụ cho ông B, là phù hợp theo quy định tại Điều 521 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Tòa án phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty Cổ phần Khu công nghiệp T. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 12/2020/DS-ST ngày 30-6-2020 của Tòa án nhân dân huyện U, tỉnh Bình Dương. |
1-11 |
2 |
Bản án số 47/2020/KDTM – PT ngày 20/7/2020 về việc tranh chấp hợp đồng dịch vụ môi giới bất động sản của Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng Nội dung: Giữa Công ty B (Bên B) với Bà P và NLC (Bên A) có ký kết 02 Hợp đồng gồm: Hợp đồng hợp tác tiếp thị cho thuê và Hợp đồng v/v môi giới tiếp thị cho thuê cơ sở, cùng ghi ngày 03/11/2017 với cùng nội dung: Bà P có nghĩa vụ tìm đối tác cho Công ty B để cho thuê bất động sản là Lô H, Khu dân cư số 5, đường N, nay là đường N, phường K, quận C, thành phố Đà Nẵng có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số do Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng cấp cho Công ty B. Nguyên đơn là Công ty B cho rằng bản chất hợp đồng này là hợp đồng môi giới bất động sản, trong khi bị đơn cho rằng là Hợp đồng hợp tác tiếp thị cho thuê mới là hợp đồng có thật, có giá trị pháp lý, Hợp đồng v/v môi giới tiếp thị cho thuê cơ sở chỉ là hợp đồng giả tạo. Công ty B khởi kiện Bà Trần Thị P yêu cầu Tòa án: - Tuyên bố "Hợp đồng v/v môi giới tiếp thị cho thuê cơ sở" ngày 03-11- 2017 và Phụ lục hợp đồng ngày 20-11-2017 giữa Công ty B với Bà Trần Thị P là vô hiệu do Bà P có hành vi kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản vi phạm điều cấm của pháp luật. - Giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu: Tuyên buộc Bà Trần Thị P phải hoàn trả lại cho Công ty B số tiền 315.000.000đ đã nhận. Bà P cho rằng yêu cầu khởi kiện của Công ty B là không có cơ sở, đồng thời có yêu cầu phản tố: - Buộc Công ty B phải có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện Hợp đồng hợp tác tiếp thị cho thuê mà các bên đã thỏa thuận và ký kết vào ngày 03-11-2017.- Buộc Công ty B phải có nghĩa vụ thanh toán cho tôi phí hợp tác tiếp thị lần 3 và lần 4 với tổng số tiền là 322.410.386đ. Toà án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tuyên bố: "Hợp đồng v/v Môi giới tiếp thị cho thuê cơ sở" lập ngày 03- 11-2017 và Phụ lục hợp đồng lập ngày 20-11-2017 giữa Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ B với Bà Trần Thị P là vô hiệu. Giải quyết hậu quả: Bà Trần Thị P phải hoàn trả lại cho Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ B số tiền 315.000.000đ Toà án phúc thẩm nhận định: Về tên của hợp đồng, một hợp đồng là v/v môi giới tiếp thị cho thuê cơ sở, một hợp đồng là Hợp đồng hợp tác tiếp thị cho thuê nhưng nội dung cơ bản của cả hai hợp đồng thì không có gì khác, chỉ khác về phí hoa hồng Bà P, NLC được hưởng. Cụ thể, Công ty B là chủ sở hữu, sử dụng bất động sản là Lô H, Khu dân cư số 5, đường N, nay là đường N, phường K, quận C, thành phố Đà Nẵng giao cho Bà P, NLC thực hiện việc tiếp thị, tìm đối tác đáp ứng các điều kiện của Công ty B để cho thuê, đồng thời Bà P, NLC nhận được một khoản phí dịch vụ khi giao dịch thành công. Tại hợp đồng hợp tác, phí dịch vụ là 20,588236% còn tại hợp đồng môi giới phí dịch vụ là 18,529%. Bà P, NLC không phải là bên cùng đóng góp tài sản vào để hình thành bất động sản để cho thuê, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm trong quá trình thực hiện hợp đồng. Theo tài liệu, chứng cứ các bên đương sự cung cấp, trình bày thống nhất của các bên đương sự, người làm chứng thì sau khi các bên ký hợp đồng hợp tác tiếp thị cho thuê, nhận thấy có một số điều khoản trong hợp đồng không rõ ràng, khó thực hiện nên các bên đã thống nhất ký lại hợp đồng môi giới tiếp thị cho thuê với phí dịch vụ môi giới là 18,529%, nhưng do có sự thay đổi về diện tích cho thuê sau khi xây dựng xong nên các bên tính lại phí dịch vụ môi giới là 17,45% theo Phụ lục hợp đồng ký ngày 20/11/2017. Thực tế các bên đã thực hiện theo thỏa thuận này và Bà P, NLC đã hưởng phí dịch vụ là 17,45% với 02 đợt, mỗi người là 315.000.000đ. Như vậy, có cơ sở xác định hai hợp đồng dù có tên gọi khác nhau nhưng cũng chỉ là về việc môi giới tiếp thị cho thuê bất động sản là Lô H, khu dân cư số 5, đường N của Công ty B và Hợp đồng v/v môi giới tiếp thị cho thuê cơ sở ngày 03/11/2017 và Phụ lục hợp đồng ký ngày 20/11/2017 là được giao kết sau, được các bên thống nhất thực hiện. Theo quy định khoản 1 Điều 8, khoản 2 Điều 62 của Luật kinh doanh bất động sản thì chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản là điều kiện bắt buộc để cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản. Tuy nhiên, khi ký kết hợp đồng với Công ty B Bà P, NLC không có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, NLC đã tự nguyện thỏa thuận thanh lý hợp đồng đối với phần của mình với Công ty B. Tại biên bản về việc thanh lý hợp đồng ngày 15/12/2018 với Công ty B Bà P cũng không cung cấp được chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản và thống nhất thanh lý hợp đồng nhưng với điều kiện Công ty B phải bồi thường cho bà. Do vậy, nguyên đơn cho rằng Bà P không có chứng chỉ môi giới bất động sản vào thời điểm ký kết hợp đồng là vi phạm điều cấm của Luật Kinh doanh bất động sản là có cơ sở. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, tuyên vô hiệu đối với Hợp đồng về việc môi giới tiếp thị cho thuê cơ sở ký kết ngày 03/11/2017 và Phụ lục hợp đồng ngày 20-11-2017 Bà P ký kết với Công ty B là đúng theo quy định tại Điều 117, Điều 122 và Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015. Về yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu của nguyên đơn: Theo quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu thì: không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập; các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. Trong vụ án này, tại thời điểm ký hợp đồng môi giới, Công ty B biết Bà P không có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản nhưng vẫn giao kết hợp đồng, nên hai bên cùng có lỗi trong việc dẫn đến hợp đồng vô hiệu. Mặc dù, hợp đồng vô hiệu nhưng kết quả Bà P đã thực hiện được nội dung thỏa thuận tại hợp đồng đã ký, Công ty B đã ký được hợp đồng với NLQ 1, hưởng lợi từ kết quả môi giới của Bà P và trả phí dịch vụ môi giới cho Bà P lần 1 và lần là 315.000.000đ, nên việc Công ty B yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu buộc Bà P phải trả lại số tiền 315.000.000đ đã nhận cho Công ty là không có cơ sở. Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn buộc Bà P trả lại số tiền đã nhận 315.000.000đ là không đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện hợp pháp của Công ty B rút lại yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, buộc Bà P trả lại số tiền hoa hồng môi giới đã nhận 315.000.000đ. Việc rút yêu cầu của nguyên đơn về yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là tự nguyện, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội, bị đơn đồng ý với việc rút yêu cầu này, nên HĐXX đình chỉ đối với yêu cầu này của nguyên đơn theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 299 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Về yêu cầu phản tố của bị đơn: Bà P có yêu cầu phản tố về việc yêu cầu Công ty B phải trả cho bà phí hợp tác tiếp thị lần 3, lần 4 theo Hợp đồng hợp tác tiếp thị cho thuê với số tiền là 322.410.386đ: Như đã phân tích ở phần [2] Hợp đồng môi giới tiếp thị cho thuê cơ sở và Phụ lục hợp đồng là hợp đồng được giao kết sau, các bên thống nhất thực hiện, nhưng đã bị vô hiệu theo quy định tại Điều 117, Điều 122 và Điều 123 BLDS năm 2015. Do đó, bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu phản tố này của Bà P là có cơ sở. Toà án phúc thẩm tuyên: Sửa một phần bản án sơ thẩm, cụ thể: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty B. Đình chỉ yêu cầu giải quyết hậu quả giao dịch vô hiệu của Công ty B. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà P. |
12-25 |
3 |
Bản án 750/2023/KDTM-PT ngày 18/07/2023 về tranh chấp hợp đồng dịch vụ kinh doanh bất động sản của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh Nội dung: Ngày 13/02/2017, Công ty Cổ phần V (gọi tắt là “Công ty V”) và Công ty TNHH H (gọi tắt là “Công ty H”) đã cùng ký kết Hợp đồng dịch vụ tiếp thị và phân phối độc quyền số 01/2017/HĐ-TT&PP của Dự án Chung cư Hoa Phượng tại địa chỉ số 34/1A Quốc lộ 1A, Phường Thới An, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh. Công ty H đồng ý giao cho Công ty V thực hiện việc tiếp thị và phân phối độc quyền sản phẩm căn hộ (gồm căn hộ nhà ở xã hội với tổng diện tích sàn thông thủy là 27.092 m2 và căn hộ thương mại với diện tích sàn thông thủy là 6.272,52 m2) thuộc dự án căn hộ nhà ở xã hội Chung cư Hoa Phượng Về tiền đặt cọc: Để đảm bảo thực hiện Hợp đồng, Công ty V đặt cọc cho Công ty H số tiền đặt cọc là 10.000.000.000 đồng (mười tỷ đồng) Khi giao dịch thành công (khi khách hàng do Bên B giới thiệu ký kết hợp đồng mua bán/ cho thuê căn hộ - Hợp đồng đặt cọc, Hợp đồng mua bán/ cho thuê căn hộ - với Công ty H và thanh toán đủ 20% trên giá trị căn hộ) thì Công ty H sẽ hoàn lại tiền đặt cọc cho Công ty V tương ứng với diện tích sàn căn hộ nhà ở xã hội đã giao dịch thành công đó. Khi Công ty V hoàn thành 80% diện tích sàn căn hộ nhà ở xã hội thì Công ty H có trách nhiệm hoàn toàn bộ số tiền mà Công ty V đã đặt cọc. Về phí dịch vụ: Công ty H có trách nhiệm thanh toán phí cho Công ty V theo mức phí như sau: Giá bán – Giá gốc. Trong đó: Giá bán là giá do Công ty V quyết định theo quy định của cơ quan nhà nước và được ghi trong hợp đồng mua bán (giá bán này Công ty H cam kết bảo đảm giá bán ra thị trường sẽ được cơ quan nhà nước phê duyệt là 14,500,000 đồng/m2). Giá gốc: là giá căn hộ được xác định là 13,380,000 đồng/ m2 x Diện tích thương phẩm. Sau khi ký hợp đồng, Công ty V đã thực hiện nghiêm chỉnh nội dung của hợp đồng, bao gồm: - Thực hiện thanh toán đầy đủ tiền đặt cọc cho Công ty H theo đúng tiến độ đã thống nhất trong hợp đồng là 10,000,000,000 đồng (mười tỷ đồng) - Thực hiện dịch vụ tiếp thị và phân phối độc quyền Dự án Chung cư Hoa Phượng đạt tỷ lệ 100 % số lượng căn hộ đã giao dịch thành công. Đề nghị Tòa án buộc Công ty TNHH H hoàn trả cho Công ty V tổng số tiền tạm tính đến ngày vụ án được đưa ra xét xử (17/8/2022) là: 16,695,591,101 đồng, Công ty TNHH H không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện, cũng như Đơn khởi kiện bổ sung của Công ty Cổ phần V vì Công ty Cổ phần V đã vi phạm hợp đồng đã ký kết với Công ty TNHH H. Công ty Cổ phần V đã vi phạm việc độc quyền trong phân phối sản phẩm và thu cao hơn số tiền quy định, có sự chênh lệch trong hợp đồng đã ký kết. Tòa án sơ thẩm tuyên: 1./ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần V. Buộc Công ty TNHH H phải thanh toán cho Công ty Cổ phần V số tiền phí dịch vụ tiếp thị và phân phối còn lại là 4.636.715.236 đồng và tiền lãi chậm thanh toán đối với tiền phí tiếp thị và phân phối, tính từ ngày 28/12/2018 đến ngày 17/08/2022 là 3.078.778.917 đồng, tổng cộng là 7.715.494.153 đồng Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần V về việc yêu cầu Công ty TNHH H phải hoàn trả lại số tiền đặt cọc 5.000.000.000 đồng (năm tỷ đồng) và tiền lãi chậm trả đối với tiền cọc tính từ ngày 28/12/2018 đến ngày 17/08/2022 là 3.320.000.000 đồng (ba tỷ ba trăm hai mươi triệu đồng). Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần V về việc yêu cầu Công ty TNHH H phải thanh toán phạt do vi phạm hợp đồng là 660.096.948 đồng (Sáu trăm sáu mươi triệu không trăm chín mươi sáu nghìn chín trăm bốn mươi tám) đồng. 2./ Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty TNHH H: Buộc Công ty Cổ phần V phải mất khoản tiền đã đặt cọc là 10.000.000.000đ (Mười tỷ đồng) cho Công ty H. Tòa án phúc thẩm nhận định: Ngày 13/12/2017, Công ty TNHH H và Công ty Cổ phần V thoả thuận ký hợp đồng dịch vụ tiếp thị và phân phối độc quyền số 01/2017/HĐ-TT&PP của dự án chung cư Hoa Phượng tại địa chỉ số 34/1A Quốc lộ 1A, Phường Thới An, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung của hợp đồng thể hiện nguyên đơn Công ty V được bị đơn Công ty H giao thực hiện công việc tiếp thị và phân phối độc quyền sản phẩm căn hộ thuộc dự án căn hộ nhà ở xã hội tại địa điểm như đã nêu trên. - Căn cứ vào Hợp đồng môi giới số 40/HĐMG-SLK/VH- CT ngày 25/11/2017 được ký kết giữa Công ty V và Công ty TNHH C về việc môi giới dự án Khu chung cư nhà ở xã hội Hoa Phượng, đính kèm theo Hợp đồng môi giới trên là Phụ lục số 01 ngày 25/11/2017; Hợp đồng môi giới số 30/HĐMG- SLK/VH- PV ngày 13/4/2017 được ký kết giữa Công ty V và Công ty TNHH Đầu tư PV (PV INVEST) về việc môi giới dự án Khu chung cư nhà ở xã hội Hoa Phượng, đính kèm theo hợp đồng môi giới trên Phụ lục số 01 ngày 13/4/2017, Phụ lục số 02 ngày 14/01/2018; Phục lục số 3 ngày 01/7/2018. Nội dung hai hợp đồng nêu trên thể hiện nguyên đơn đã giao cho bên thứ ba là Công ty TNHH C và Công ty TNHH Đầu tư PV để hai công ty này nhận cung cấp dịch vụ môi giới bất động sản của dự án chung cư Hoa Phượng. Việc nguyên đơn giao lại quyền tiếp thị và bán căn hộ như trên đã vi phạm hợp đồng tại mục 2 Điều 8 của hợp đồng quy định về nghĩa vụ của Công ty V - Căn cứ các Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư số 1011/2018/HĐ- CCHP/Zen Tower được ký kết giữa Công ty H và ông bà Phạm Ngọc D, Nguyễn Thị Thanh T, Phiếu thu ngày 07/02/2018, Biên bản ghi nhận sự việc vào ngày 16/3/2019 giữa Công ty H và bà Nguyễn Thị Thanh T về việc phản ánh Công ty V thu thêm tiền tư vấn, giới thiệu mua căn hộ; Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư số 1120/2018/HĐ-CCHP/Zen Tower được ký kết giữa Công ty H và ông bà Trần Đức T, Vương Thị Bé H, Phiếu thu ngày 28/02/2018, Biên bản ghi nhận sự việc vào ngày 10/01/2019 giữa Công ty H và bà Vương Thị Bé H về việc phản ánh Công ty V thu thêm tiền tư vấn, giới thiệu mua căn hộ; Các hợp đồng và phiếu thu nêu trên thể hiện nguyên đơn và Công ty C đã thu thêm phí tư vấn trực tiếp từ khách hàng nên đã vi phạm hợp đồng được quy định tại mục 2 Điều 9 về cam kết của bên B (Công ty V) như sau: “2.6. Không được đứng tên ký kết hợp đồng góp vốn hoặc mua bán với khách hàng hay thay mặt bên A trong bất kỳ hợp đồng hay thỏa thuận nào, và không được nhận tiền trực tiếp từ khách hàng hay bất kỳ hình thức nào khác (ngoài khoản bên B thu hộ tiền đặt cọc, tiền giữ chỗ)”. Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc đề nghị Toà án tuyên buộc nguyên đơn mất toàn bộ số tiền đặt cọc 10.000.000.000 đồng và số tiền này thuộc về bị đơn là có căn cứ và đúng theo sự thoả thuận của các bên tại mục 3 Điều 3 của hợp đồng “3.1 Khi bên B thực hiện công việc không đúng thời hạn theo từng đợt tiến độ mà bên B tiếp thị và phân phối nêu trên, vi phạm một trong những điều khoản, nghĩa vụ tại hợp đồng này thì bên B bị mất toàn bộ khoản tiền đặt cọc, tiền đặt cọc thuộc về Bên A”. Do nguyên đơn là bên vi phạm hợp đồng về các điều khoản bảo mật thông tin và các cam kết về nghĩa vụ của bên B của Hợp đồng dịch vụ tiếp thị và phân phối độc quyền số 01/2017/HĐ-TT&PP ngày 13/02/2017 nên Toà án Quận S không chấp nhận các yêu cầu về việc buộc trả tiền đặt cọc, tiền lãi phát sinh do chậm thanh toán là có căn cứ. Tòa án phúc thẩm tuyên: [1] Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần V. Buộc Công ty TNHH H phải thanh toán cho Công ty Cổ phần V số tiền phí dịch vụ tiếp thị và phân phối còn lại là 4.636.715.236 đồng và tiền lãi chậm thanh toán đối với tiền phí tiếp thị và phân phối, tính từ ngày 28/12/2018 đến ngày 17/08/2022 là 3.078.778.917 đồng, tổng cộng là 7.715.494.153 đồng. [2] Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần V về việc yêu cầu Công ty TNHH H phải hoàn trả lại số tiền đặt cọc 5.000.000.000 (năm tỷ đồng) và tiền lãi chậm trả đối với tiền cọc tính từ ngày 28/12/2018 đến ngày 17/08/2022 là 3.320.000.000 (ba tỷ ba trăm hai mươi triệu) đồng. [3] Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần V về việc yêu cầu Công ty TNHH H phải thanh toán phạt do vi phạm hợp đồng là 660.096.948 (Sáu trăm sáu mươi triệu, không trăm chín mươi sáu nghìn, chín trăm bốn mươi tám) đồng. [4] Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty TNHH H: Buộc Công ty Cổ phần V phải mất khoản tiền đã đặt cọc là 10.000.000.000 (mười tỷ) đồng cho Công ty H. |
26-40 |
LINK PDF: TỔNG HỢP 07 BẢN ÁN LIÊN QUAN ĐẾN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ MÔI GIỚI BẤT ĐỘNG SẢN
………………….
Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 2, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn
Các bài viết khác
- Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Lập luận pháp lý (Legal Reasoning)
- Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia: Đổi mới, nâng cao chất lượng các Tạp chí Luật học
- GIÁO TRÌNH LUẬT QUỐC TẾ VỀ DOANH NGHIỆP
- GIÁO TRÌNH LUẬT DOANH NGHIỆP (Tình huống - Phân tích - Bình luận)
- SÁCH CHUYÊN KHẢO LUẬT KINH TẾ
- LUẬN ÁN TIẾN SĨ: ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG ĐIỀU TRA TỘI PHẠM SỬ DỤNG KHÔNG GIAN MẠNG XÂM PHẠM AN NINH QUỐC GIA CỦA CƠ QUAN AN NINH ĐIỀU TRA, BỘ CÔNG AN VIỆT NAM
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CẤP QUỐC GIA: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN
- GIÁO TRÌNH LUẬT CẠNH TRANH NĂM 2010
- Giáo trình: Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới
- Giáo trình: Kỹ thuật soạn thảo văn bản
- SÁCH CHUYÊN KHẢO: HỆ THỐNG TƯ PHÁP HÌNH SỰ TRONG GIAI ĐOẠN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
- LUẬN ÁN TIẾN SĨ: PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
- LUẬN ÁN TIẾN SĨ: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP NỘI BỘ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN TẠI TÒA ÁN Ở VIỆT NAM
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC: HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI MUA BẤT ĐỘNG SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- TỔNG HỢP 20 BÀI BÁO PHÁP LÝ LIÊN QUAN ĐẾN TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG VÀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM
- Tổng hợp 12 bài báo pháp lý bảo vệ quyền trẻ em trong vụ án bạo lực, bạo hành trẻ em