DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT

TỔNG HỢP 10 BẢN ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CÓ YÊU CẦU THÁO DỠ CÔNG TRÌNH, DI DỜI VẬT, KIẾN TRÚC
Ngày đăng: 07/10/2024

FDVN giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 12 BẢN ÁN VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

TỔNG HỢP 10 BẢN ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CÓ YÊU CẦU THÁO DỠ CÔNG TRÌNH, DI DỜI VẬT, KIẾN TRÚC

STT

BẢN ÁN

TRANG

1

Bản án số: 04/2023/DS-PT Ngày: 15-02-2023, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi

Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu tháo dỡ công trình xây dựng trên đất

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ông Lê T và bà Lê Thị H nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và ngôi nhà gắn liền với thửa đất từ ông Nguyễn Đình Th tại thửa đất số 303, tờ bản đồ số 4. Giáp với thửa đất số 303 về phía Bắc là thửa đất số 304, tờ bản đồ số 4 (nay là thửa 411, tờ bản đồ số 9) được Ủy ban nhân dân huyện TN cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Phạm D vào ngày 30/12/2002. Năm 2014, ông D, bà T sửa chữa nhà trên thửa đất số 304 đã lấn qua đất của ông T, bà H. Ông T, bà H yêu cầu Tòa án giải quyết:

Vị trí thứ nhất (phía Tây Bắc): Yêu cầu tòa án buộc ông D, bà T tháo dỡ toàn bộ mảnh tường phía Nam xây dựng vào năm 2014 xây trên lan can mê nhà (mê vương) của ông T, bà H và một phần trên mái nhà (cấp bốn), tháo dỡ toàn bộ công trình.

Vị trí thứ hai (phía Đông Bắc) yêu cầu ông D, bà T dỡ dọn công trình xây dựng trên đất lấn chiếm và trả lại khoảng 3m2

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

- Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là ông Lê T, bà Lê Thị H về việc yêu cầu Tòa án buộc bị đơn là ông Phạm D, bà Võ Thị Thu T tháo dỡ tài sản và trả lại diện tích lấn chiếm tại vị trí tranh chấp ở phía Tây Bắc 0,45m2.

- Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê T, bà Lê Thị H về việc yêu cầu Tòa án buộc bị đơn ông Phạm D, bà Võ Thị Thu T tháo dỡ tài sản và trả lại diện tích lấn chiếm tại vị trí tranh chấp ở phía Đông Bắc (gọi là vị trí tranh chấp 2) đối với diện tích 1,36m2 và đình chỉ yêu cầu tháo dỡ tài sản trên phần diện tích đất này.

-  Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Lê T, bà Lê Thị H về việc yêu cầu Tòa án buộc bị đơn ông Phạm D, bà Võ Thị Thu T tháo dỡ tài sản, công trình xây dựng và trả lại diện tích lấn chiếm tại vị trí tranh chấp ở phía Đông Bắc (gọi là vị trí tranh chấp 2) diện tích 2,18m2.

-  Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là ông Lê T, bà Lê Thị H về việc yêu cầu Tòa án buộc bị đơn là ông Phạm D, bà Võ Thị Thu T không được sử dụng và xâm phạm đến tường riêng của nguyên đơn ở vị trí tầng trệt tính từ cột số 6 nhà ở nguyên đơn kéo về phía trước đến hết tường.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

- Ông T khai khi mua thì ngôi nhà của ông Th là nhà kiên cố. Sau khi mua thì sử dụng theo hiện trạng, chỉ xây dựng thêm trên phần mê còn lại có chiều dài khoảng 5 – 6m, nhà bốn vách xây thẳng đứng, mái nhà và lan can hè trên mê thẳng với vách. Như vậy, đo đạc theo hiện trạng thì chiều ngang trên tầng 2 đúng với chiều ngang của tầng 1 là 3,9m, chiều ngang phía sau là 3,85m, cạnh Nam có chiều dài là 36,19m, cạnh Bắc là 36,48m. Tuy cạnh Nam và Bắc là dài hơn so với chiều dài trước khi nhà nước thu hồi đất để mở rộng Quốc lộ I, nhưng cạnh phía Tây và phía Đông đúng với các tài liệu đo đạc thửa đất 303 (nay là thửa 412) trước và sau khi cấp giấy chứng nhận. Do đó, ông T khởi kiện yêu cầu ông D phải tháo dỡ tại vị trí tầng 2 hàng gạch ông D xây năm 2014 (vị trí phía Tây – Bắc là 0,44m2, chiều ngang 0,1m, chiều dài 0,44m; tháo dỡ bức tường phía sau buộc bị đơn tháo dỡ tường, một phần mái tole để trả lại 2,18m2 (đo vẽ thực tế vào ngày 25/11/2021 là 3,54m2, có chiều dài 2 cạnh là 13,4m và 13,33m) là không có căn cứ chấp nhận. Cấp sơ thẩm bác các yêu cầu này của vợ chồng ông T là phù hợp.

- Đối với phòng đầu tiên tầng 1 tính từ phía Tây về phía Đông thì có bức tường hai bên đang sử dụng chung. Ông T khai bức tường này do ông Th xây, ông D khai bức tường này do cha ông D xây, nhưng tại giai đoạn sơ thẩm không có ai yêu cầu giải quyết về bức tường này, mặc dù tại cấp sơ thẩm đã hỏi về yêu cầu cụ thể của nguyên đơn và bị đơn nên cấp sơ thẩm không giải quyết là đúng pháp luật. Tại giai đoạn phúc thẩm thì nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, chỉ tranh chấp phần không gian phía trên bức tường này là phần ông D xây thêm 01 lớp gạch vào năm 2014 mà nguyên đơn cho rằng bị đơn đã lấn phần không gian của nguyên đơn. Về phía ông D là bị đơn yêu cầu Tòa án giải quyết dứt điểm luôn trong vụ án này, xác định quyền sở hữu bức tường này hiện nay hai bên đang sử dụng chung. Xét, đây là tình tiết mới, đương sự không yêu cầu giải quyết tại cấp sơ thẩm, nhưng bức tường này liên quan đến phần tranh chấp phía trên nên cần giải quyết luôn trong vụ án. Do đó, cần hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ về cho cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án đối với yêu cầu của ông D.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 10/2022/DS-ST ngày 25/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện TN. Chuyển hồ sơ vụ án về cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

1 - 10

2

Bản án số: 76/2023/DS-PT Ngày 28- 9 -2023, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai

Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu tháo dỡ, di dời cây trồng vật kiến trúc trên đất

Tóm tắt nội dung vụ án:

Năm 2003, bà Trần Thị T và bà Mạc Thị D có mua chung 01 mảnh đất, sau đó bà T làm thủ tục và tách ra làm 03 thửa, bà T 01 thửa, bà D 02 thửa là thửa đất số 619, tờ bản đồ số 23 diện tích 345m2 ; thửa đất 621, tờ bản đồ số 23, diện tích 600m2 , đều tại Tổ A, phường A, Tx A, Gia Lai; Năm 2020, bà Mạc Thị D chuyển nhượng lại 02 thửa đất cho bà Trần Thị Kim N; Năm 2021 , bà Trần Thị Kim N chuyển nhượng lại 02 thửa đất 619 và 621, tờ bản đồ số 23 nêu trên cho tôi. Nhưng 2 khi tôi đến đo đạc tại 02 thửa đất này thì bà Trần Thị T đã tự ý rào chắn và sử dụng trên 02 thửa đất đã cấp cho tôi. Tôi yêu cầu bà Trần Thị T phải trả phần đất đã lấn chiếm đồng thời tháo dỡ vật, công trình kiến trúc, di dời cây trồng trên phần đất lần chiếm tại thửa số 619, tờ bản đồ số 23 với diện tích: 241,2m2 và thửa số 621, tờ bản đồ số 23 với diện tích: 307,1m2 . Giống như kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ mà Hội đồng XXTĐ đã đo vẽ ngày 20/9/2022.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lê Chí C về việc tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu tháo dỡ, di dời cây trồng, vật kiến trúc trên đất với bà Trần Thị T;

-Buộc bà Trần Thị T phải giao trả cho anh C phần đất lấn chiếm diện tích 241,2m2 thuộc thửa 619 và phần đất diện tích 307,1m2 thuộc thửa 621, tờ bản đồ số 23, đất tại Tổ A, phường A thị xã A, Gia lai.

-Buộc bà T tháo dỡ phần mái hiên có diện tích 3,2m2 nằm trên thửa 619 và tháo dỡ phần diện tích chuồng heo 19,6m2 nằm trên thửa đất 621, tờ bản đồ số 23 nêu trên; Di dời cây trồng, vật kiến trúc khác nằm trên phần diện tích đất mà bà T lấn chiếm của thửa 619, 621, tờ bản đồ số 23 nêu trên, để giao trả diện tích đất lấn chiếm cho anh Lê Chí C.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Bà T là người trực tiếp đi mua đất của bà H, cũng là người làm hồ sơ để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Từ khi bà T được cấp GCNQSDĐ bà T không khiếu nại gì về việc sơ đồ thửa đất cấp cho bà trong GCNQSDĐ là không đúng vị trí, hay kích thước thửa đất bà đã nhận chuyển nhượng từ bà H nhưng lại cho cho rằng trích lục của thửa đất không đúng là mâu thuẫn với chính lời khai của mình. Hơn nữa, ngày 23-4-2004, Chủ tịch ủy ban nhân dân thị xã A đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi: “xây dựng nhà ở không có giấy phép xây dựng- sử dụng đất nông nghiệp để làm nhà ở”, và đồng thời “Buộc bà T phải tháo dỡ công trình xây dựng vi phạm; khôi phục lại tình trạng đất trước khi bị thay đổi”. Nhưng bà T chưa chấp hành, vẫn tiếp tục xây dựng trái phép, lấn chiếm đất.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

hông chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị T, giữa nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 29/2023/DS -ST ngày 3 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh Gia Lai.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lê Chí C về việc tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu tháo dỡ, di dời cây trồng, vật kiến trúc trên đất với bà Trần Thị T;

-Buộc bà Trần Thị T phải giao trả cho anh C phần đất lấn chiếm diện tích 241,2m2 thuộc thửa 619 và phần đất diện tích 307,1m2 thuộc thửa 621, tờ bản đồ số 23, đất tại Tổ A, phường A thị xã A, Gia lai.

-Buộc bà T tháo dỡ phần mái hiên có diện tích 3,2m2 nằm trên thửa 619 và tháo dỡ phần diện tích chuồng heo 19,6m2 nằm trên thửa đất 621, tờ bản đồ số 23 nêu trên; Di dời cây trồng, vật kiến trúc khác nằm trên phần diện tích đất mà bà T lấn chiếm của thửa 619, 621, tờ bản đồ số 23 nêu trên, để giao trả diện tích đất lấn chiếm cho anh Lê Chí C

11 - 17

3

Bản án số: 105/2024/DS-PT Ngày: 27-8-2024, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa

Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu tháo dỡ tài sản trên đất

Tóm tắt nội dung vụ án:

Nguồn gốc thửa đất số 689, tờ bản đồ số 15, diện tích 111,8m2 tại thôn T, xã T, huyện Y được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số DA 152023 cấp ngày 16/6/2021 mang tên bà Nguyễn Thị S, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị N là di sản thừa kế của bố mẹ các bà (cụ Nguyễn Văn L và cụ Lê Thị C1) được chia theo bản án phúc thẩm số 68/2006/DS-PT ngày 17/10/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Từ khi được chia di sản thừa kế đất các bà chưa xây dựng gì. Tuy nhiên, gia đình bà Trịnh Thị C tự ý xây dựng 01 nhà cấp 4 ba gian, 01 nhà xe để ô tô, làm hơn 100m2 sân bê tông lên phần đất của các bà. Việc bà C tự ý xây dựng công trình lên phần đất của các bà, các bà biết và yêu cầu bà C tự tháo dỡ trả lại đất cho các bà nhưng bà C không thực hiện. Vì vậy, các bà làm đơn yêu cầu Toà án buộc bà C phải tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng trên phần đất của các bà, trả lại mặt bằng nguyên trạng 111,8m2 cho các bà và bà C phải chịu toàn bộ chi phí tháo dỡ và các chi phí tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

- Xác nhận thửa đất số 689, tờ bản đồ số 15, diện tích 111,8m2 tại thôn T, xã T, huyện Y được cấp GCNQSDĐ số DA 152023 cấp ngày 16/6/2021 là tài sản hợp pháp của bà Nguyễn Thị S, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị N.

- Xác nhận thửa đất số 688, tờ bản đồ số 15, diện tích 112,1m2 tại thôn T, xã T, huyện Y được cấp GCNQSDĐ số CD 103313, UBND huyện Y cấp ngày 17/5/2016 là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Tiến D. 5

- Xác nhận thửa đất số 687, tờ bản đồ số 15, diện tích 112,3m2 tại thôn T, xã T, huyện Y được UBND huyện Y cấp ngày 17/5/2016 mang tên ông Nguyễn Văn C2 (chồng bà S1 đã chết) là tài sản hợp pháp của bà Nguyễn Thị S1.

- Buộc bà Trịnh Thị C phải tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng trái phép là ngôi nhà cấp IV, bán bình tường rào và cổng ngõ, khôi phục lại nguyên trạng ban đầu như khi đất mới chia thừa kế của bà Nguyễn Thị S, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị N, anh Nguyễn Tiến D và ông Nguyễn Văn C2 (chồng bà S1 đã chết).

Tòa án cấp phúc nhận định:

- Nguồn gốc các thửa đất nêu trên là di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn L và cụ Lê Thị C1, các bà và anh D được chia thừa kế theo bản án dân sự phúc thẩm số 68/2006/DS-PT ngày 17/10/2006 của Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Căn cứ theo bản án đã có hiệu lực pháp luật, các bà và anh D đã được cấp GCNQSDĐ, nên các bà và anh D được sử dụng các thửa đất nêu trên là hợp pháp.

- Có căn cứ xác định các phần đất đã được chia, được cấp GCNQSDĐ cho các bà Nguyễn Thị S, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị N; ông Nguyễn Văn C2 (chồng bà Nguyễn Thị S1) và anh Nguyễn Tiến D là tài sản hợp pháp của các bà và anh D, nên việc bà C xây dựng nhà, bán bình, tường rào, cổng ngõ trên phần đất thuộc quyền quản lý, sử dụng của người khác là trái pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn, buộc bà Trịnh Thị C phải tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng trái phép là ngôi nhà cấp IV, bán bình, tường rào và cổng ngõ, khôi phục lại nguyên trạng ban đầu như khi đất mới chia thừa kế của bà Nguyễn Thị S, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị N, ông Nguyễn Văn C2 (chồng bà S1 đã chết) và anh Nguyễn Tiến D là có căn cứ.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Trịnh Thị C. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 04/2024/DS-ST ngày 27/5/2024 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Thanh Hóa.

18 - 24

LINK PDF: TỔNG HỢP 10 BẢN ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CÓ YÊU CẦU THÁO DỠ CÔNG TRÌNH, DI DỜI VẬT, KIẾN TRÚC

 

………………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 2, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

 

Các bài viết khác

Hotline tư vấn:
Zalo